Soạn bài Kiểm tra tổng hợp cuối năm
Hướng dẫn Soạn bài Kiểm tra tổng hợp cuối năm chi tiết, đầy đủ nhất. Thông qua việc thực hành trả lời các câu hỏi trong phần hướng dẫn và bài tập, chúng ta có thể củng cố kiến thức cơ bản về tác phẩm này.
Phần 1 – Phần trắc nghiệm
1 | 2 | 3 | 4 | 5 | 6 | 7 | 8 | 9 | 10 | 11 | 12 |
C | B | A | C | D | D | D | D | C | D | B | B |
Phần 2 – Phần tự luận
Đề 1 (trang 203 sgk Ngữ Văn 12 Tập 2)
Câu 1 (trang 203 sgk Ngữ Văn 12 Tập 2)
* Tác giả Tô Hoài:
– Tên khai sinh là Nguyễn Sen (1920 – 2014).
Con người cần mẫn trong lao động sáng tạo nghệ thuật:
– Số lượng gần 200 đầu sách đã xuất bản.
– Đề tài phong phú.
– Có phong cách sáng tác độc đáo.
– Nhiều tác phẩm được dịch ra tiếng nước ngoài. Tiêu biểu: Dế mèn phiêu lưu ký Truyện thiếu nhi, 1941; Truyện Tây Bắc Tập truyện, 1953; Miền Tây Tiểu thuyết, 1967; Cát bụi chân ai Hồi kí, 1992; Ba người khác Tiểu thuyết, 2006 …
* Truyện ngắn Vợ chồng A Phủ
– Truyện ngắn Vợ chồng A Phủ là tác phẩm đặc sắc nhất trong tập “Truyện Tây Bắc”, gồm 3 tập: Cứu đất cứu mường, Mường Giơn và Vợ chồng A Phủ.
– Hoàn cảnh sáng tác: Khi Tô Hoài cùng bộ đội tham gia vào chiến dịch giải phóng Tây Bắc (1952).
Câu 2 (trang 203 sgk Ngữ Văn 12 Tập 2):
Truyện ngắn Vợ nhặt của nhà văn Kim Lân viết về cuộc sống ngột ngạt, bức bối của dân ta năm 1945, với nạn đói khủng khiếp làm chết hơn hai triệu người từ miền Bắc tới miền Trung. Tác giả viết truyện này ngay trong nạn đói, với cái tên ban đầu là Xóm ngụ cư, nhưng vì thất lạc bản thảo nên đến sau hòa bình 1954 ông mới viết lại và cho ra mắt bạn đọc với tựa đề là Vợ nhặt. Hơn nửa thế kỷ đã trôi qua nhưng tác phẩm vẫn xứng đáng là một trong những truyện ngắn xuất sắc nhất của văn xuôi Việt Nam hiện đại.
Yếu tố tạo nên sức hấp dẫn của tác phẩm chính là ở chỗ nhà văn Kim Lân đã sáng tạo ra một tình huống truyện đặc biệt, một tình huống éo le, trớ trêu chứa đựng đầy kịch tính nhưng tại chứa đựng ý nghĩa nhân văn vô cùng sâu sắc.
Cốt truyện đơn giản: Một anh chàng ngụ cư nghèo khổ, độc thân, đứng tuổi và xấu xí làm nghề kéo xe bò thuê, chỉ với vài câu bông đùa và mấy bát bánh đúc mà kiếm được cô vợ nhặt – một cô gái đang dở sống dở chết vì đói. Họ thành vợ thành chồng giữa khung cảnh tối sầm lại vì đói khát. Đêm tân hôn của họ diễn ra âm thầm trong bóng tối âm u, lạnh lẽo, điểm những tiếng hờ khóc tỉ tê của những nhà có người chết đói theo gió vẳng lại. Bữa cơm cưới của họ chì có cháo loãng, rau chuối và muối hột. Mẹ chồng đãi con trai và con dâu món chè nấu bằng cám. Bữa cơm diễn ra trong tiếng trống thúc thuế dồn dập. Câu chuyện của ba mẹ con xoay quanh chuyện Việt Minh hô hào dân chúng không đóng thuế và tổ chức phá kho thóc của Nhật chia cho người nghèo.
Cảnh anh Tràng đưa cô vợ nhặt về nhà là một tình huống lạ lùng, tạo ra sự ngạc nhiên và thú vị cho cả cái xóm ngụ cư đang hấp hối và lạ lùng ngay cả với mẹ con Tràng. Anh dẫn người đàn bà lạ mặt về nhà lúc trời nhập nhoạng tối. Hai người lủi thủi đi vào cái xóm ngụ cư heo hút, tồi tàn ở mé sông. Nhà cửa hai bên đường úp súp, tối om, không một ánh đèn, ánh lửa, chẳng khác gì những nấm mồ hoang. Khung cảnh ngập tràn tử khí. Sự sống chỉ còn thoi thóp. Bóng đen chết chóc đang bao phủ khắp nơi.
Tràng dẫn người đàn bà mới quen về để làm vợ, để tạo dựng gia đình, tiếp nối sự sống. Trên bờ vực thẳm của cái chết, họ tìm đến sự sống. Tràng vui sướng vì sự kiện to lớn bất ngờ của đời anh: anh đã có vợ, anh đang dẫn vợ về nhà. Đói, chết tràn lan. Mình cũng đói, mẹ già cũng đói, thế mà lại lấy vợ vào lúc này. Quả là chuyện lạ lùng và thú vị!
Trước hết là lạ lùng với dân xóm ngụ cư. Cái cảnh Tràng đi trước với vẻ mặt phởn phở khác thường và người đàn bà đi sau ba bốn bước với cái dáng thèn thẹn hay đáo để làm cho mọi người tò mò kéo nhau ra xem. Đầu tiên là lũ trẻ. Đang ủ rũ vì đói, chúng bỗng nhao nhao nói cười, trêu ghẹo anh Tràng: Anh Tràng ơi, chông vợ hài! Dân xóm ngụ cư thấy ồn ào thì kéo nhau ra xem rồi thì thầm bàn tán. Rồi họ hiểu ra và khuôn mặt họ bỗng dưng rạng rỡ hẳn lên. Từ trong sâu thẳm tâm hồn họ vẫn le lói một niềm vui. Họ thú vị nghĩ tới chuyện anh Tràng bỗng dưng có vợ và thực lòng muốn chia vui với anh. Cái xóm ngụ cư đang thoi thóp chờ chết này chợt bừng lên một thoáng sống. Nhưng vui đấy lại lo ngay đấy. Họ lo thay cho Tràng: Ôi chao! Giời đất này còn rước cái của nợ đời về. Biết có nuôi nổi nhau sống qua được cái thì này không? Ấy là họ lo cho sự sống đang phải đối mặt với cái chết và cứ hi vọng vượt lên cái chết.
Bà cụ Tứ mẹ anh Tràng ngạc nhiên khi nhìn thấy cô gái lạ ngồi ở giường con trai mình. Được gọi bằng u, bà càng chẳng hiểu ra làm sao. Cho tới lúc nghe Tràng bảo: Kìa nhà tôi nó chào u… thì bà mới vỡ lẽ: Bà lão cúi đầu nín lặng. Bà lão hiểu rồi. Lòng người mẹ nghèo khổ ấy còn hiểu ra biết bao nhiêu cơ sự, vừa ai oán vừa xót thương cho số kiếp đứa con mình… Thì ra là thằng con trai mình đã kiếm được vợ và dẫn về đây. Tâm trạng bà cụ buồn tủi, mừng, lo lẫn lộn. Buồn tủi vì làm cha làm mẹ mà không tròn trách nhiệm đối với con cái, nghèo khổ đến nỗi không thể cưới được vợ cho con. Mừng vì tự nhiên con trai có được vợ, dù là vợ nhặt. Còn lo bởi bà cụ băn khoăn: biết rằng chúng nó có nuôi nổi nhau sống qua được cơn đói khát này không? Càng ngẫm nghĩ, bà cụ càng thương con trai và thương cô gái xa lạ kia vô hạn: Trong kẽ mắt kèm nhèm của bà rỉ xuống hai dòng nước mắt.
Đến ngay chính anh Tràng cũng ngạc nhiên không kém. Ngạc nhiên đến sửng sốt, không tin là sự thật: Nhìn thị ngồi ngay giữa nhà, đến bây giờ hắn vẫn còn ngờ ngợ như không phải thế. Ra hắn đã có vợ rồi đấy ư? Hà! Việc xảy ra thật hắn cũng không ngờ, hắn chỉ tầm phơ tầm phào đâu có hai bạn, ấy thế mà thành vợ thành chồng… Ngày hôm sau thức dậy, nhìn chị ta quét dọn sân vườn, Tràng vẫn chưa dám tin là mình đã có vợ. Chuyện xảy ra cứ như trong một giấc mơ, nhưng người đàn bà bằng xương bằng thịt kia chính là vợ anh, dẫu chẳng phải cưới xin gì.
Tình huống mà Kim Lân đặt ra trong truyện là một tình huống éo le, trớ trêu, không biết nên buồn hay nên vui. Bản thân Tràng lúc đầu thì mừng vì tự nhiên có được vợ, nhưng rồi anh chợn, nghĩ: Thóc gạo này đến cái thân mình cũng chả biết có nuôi nổi không, lại còn đèo bòng. Hàng xóm cũng lo thay cho anh và nhất là người mẹ già lo và thương đứt ruột. Tác giả đặc tả đêm tân hôn của vợ chồng Tràng với những chi tiết thật ấn tượng và chứa đựng ý nghĩa sâu xa: Tràng chỉ dám thắp đèn có một lúc rồi tắt. Hai người nằm lặng lẽ bên nhau trong bóng tối hãi hùng, ghê rợn bởi tiếng hờ khóc tỉ tê văng vẳng từ những nhà có người chết đói.
Chút hạnh phúc nhỏ nhoi, mong manh của họ bị cái đói, cái chết bủa vây. Nhưng sự sống là bất diệt. Từ trong cái chết, sự sống vẫn sinh sôi, nảy nở. Bi thương cùng cực thành dữ dội. Sự sống bất chấp cái chết, điều đó chứng tỏ ý chí con người và quy luật của cuộc đời mạnh mẽ biết chừng nào !
Đặt nhân vật vào tình huống éo le như vậy, nhà văn đã làm nổi bật ý nghĩa nhân văn sâu xa của tác phẩm. Cho dù không trực tiếp nói tới thực dân Pháp, phát xít Nhật và chính quyền phong Kiến tay sai nhưng từ câu chuyện về người vợ nhặt vẫn toát lên lời tố cáo đanh thép tội ác tày trời của chúng đã gây ra nạn đói thảm khốc có một không hai trong lịch sử nước ta. Quan trọng hơn cả là truyện đã thể hiện thành công vẻ đẹp tinh thần ẩn giấu trong cái vẻ ngoài xác xơ vì đói khát của những người nghèo khổ. Trong cái cuộc sống không đáng gọi là sống ấy, họ vẫn nhen nhóm niềm tin và hi vọng vào một sự đổi đời, vào tương lai tươi sáng. Đó chính là giá trị nhân văn làm nên sức sống lâu dài của tác phẩm.
Đề 2 (trang 203 sgk Ngữ Văn 12 Tập 2):
Câu 1 (trang 203 sgk Ngữ Văn 12 Tập 2):
* Tác giả Ơ. Hê – minh – uê
– Ernest Hemingway (1899-1961) là nhà văn Mỹ tài ba, để lại dấu ấn đậm nét trong văn xuôi hiện đại phương Tây.
– Sau khi tốt nghiệp trung học, ông làm phóng viên chiến trường trong hai cuộc chiến tranh thế giới.
– Yêu thích thiên nhiên hoang dã.
– Ông mang tâm trạng thất vọng về xã hội đương thời, tự nhận mình thuộc “thế hệ mất mát”.
– Tác phẩm tiêu biểu:
+ Giã từ vũ khí (1929),
+ Chuông nguyện hồn ai (1940).
+ Ông già và biển cả (1952).
* Tác phẩm Ông già và biển cả: Ông già và biển cả
– Xuất xứ: Được xuất bản lần đầu trên tạp chí Đời sống.
– Là tác phẩm tiêu biểu của Hemingway. Tác phẩm gây tiếng vang lớn và hai năm sau Hemingway được nhận giải Nô-ben.
Câu 2 (trang 203 sgk Ngữ Văn 12 tập 2):
“Trong cuộc đời chúng ta, sẽ có rất nhiều thứ mà chúng ta đánh mất đi rồi mới biết trân trọng. Và đã có ý kiến cho rằng “có ba điều trong cuộc đời mỗi người đi qua sẽ không lấy lại được: thời gian, lời nói và cơ hội”. Vậy theo bạn, ý kiến này là đúng hay sai? Chúng ta sẽ cùng đi bàn luận về ý kiến này nhé.
Ý kiến trên đã đưa ra được ba điều mà mỗi cuộc đời con người chúng ta nếu đi qua sẽ không lấy lại được chính là thời gian, lời nói và cơ hội. Thời gian là vốn quý, mỗi giây mỗi phút trôi qua chúng ta không thể lấy lại được. Người ta đã ví thời gian là vàng là bạc, đánh mất thời gian không phải cũng đồng nghĩa với việc mất đi tiền bạc hay sao. Vì sao tôi lại nói như vậy, vì chỉ trong thời gian mà bạn đã bỏ lỡ ấy, bạn biết tận dụng nó vào công việc vào những việc làm có ích thì không phải nó đã đem lại cho bạn nhiều lợi ích hay sao?.
Lời nói cũng vậy đấy, mỗi lời chúng ta nói ra như chén nước hất đi không thể lấy lại được. Cha ông ta đã từng nói lời nói chẳng mất tiền mua, lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau. Mỗi lời nói, khi chúng ta nói ra đều phải suy nghĩ kĩ càng, chứ không được nói một cách bừa bãi vì mỗi lời nói ra thì sẽ không rút lại được và sẽ gây nhiều tác hại khôn lường từ một lời nói thiếu suy nghĩ. Lời nói phải đi đôi với việc làm, nếu chúng ta làm được thì mới nên nói, còn không thì không nên đưa ra lời nói để tránh những hối tiếc.
Với những hướng dẫn Soạn bài Kiểm tra tổng hợp cuối năm chi tiết như trên. Hy vọng sẽ giúp các bạn nắm được những ý chính của tác phẩm này. Chúc các bạn có những bài soạn thật tốt, để thuận tiện trong quá trình tiếp thu bài giảng.