Soạn bài Thực hành tiếng Việt trang 42 – Ngữ văn lớp 12 Chân trời sáng tạo (Tập 2)

Hướng dẫn soạn bài Thực hành tiếng Việt trang 42 – Ngữ văn lớp 12 Chân trời sáng tạo (Tập 2) chi tiết, đầy đủ nhất. Thông qua việc thực hành trả lời các câu hỏi trong phần hướng dẫn và bài tập, chúng ta có thể củng cố kiến thức cơ bản về tác phẩm này.

Câu 1 (trang 42 SGK Ngữ văn 12 Tập 2): Xác định và phân tích tác dụng của biện pháp tu từ nói mỉa trong các trường hợp sau:

a, “Thế sao bác cũng chủ trương cải cách trong báo của bác?”

“Là vì tôi cũng như bác giai. Phụ nữ nghĩa là vợ con chị em người khác, chứ không phải vợ con chị em của tôi. Gia đình tôi thì cứ phải theo cổ, không được có hạng đàn bà ăn mặc tân thời nay khiêu vũ, mai chợ phiên, rồi về nhà chửi lại mẹ chồng bằng những lí thuyết bình quyền với giải phóng!”

Ông nhà báo nói một cách quả quyết như những nhà văn sĩ cấp tiến làm cho nhà mĩ thuật cũng hăng hái nói tiếp:

“Đối với tôi ấy à?… Đàn bà cứ nhốt trong buồng. Mợ đã hiểu ra chưa?”

Phân tích:

Tác dụng của biện pháp nói mỉa:

Trường hợp a: Câu nói mỉa mai về việc “phụ nữ nghĩa là vợ con chị em người khác” nhằm chỉ trích sự mâu thuẫn giữa lời nói và hành động. Ông nhà báo, mặc dù công khai ủng hộ cải cách và bình quyền, nhưng thực chất lại duy trì quan điểm hủ lậu và lạc hậu đối với phụ nữ. Điều này được thể hiện qua cách ông phê phán sự thay đổi trong gia đình khác nhưng lại khăng khăng giữ nguyên các quan niệm cổ hủ trong gia đình của mình. Biện pháp nói mỉa ở đây bộc lộ sự giả dối và chỉ trích tính thiếu chân thành trong quan điểm của nhân vật.

b, “A-mê-li-a rất tán thành cuộc hôn nhân của anh trai, đúng như tính tình khôn ngoan của một thiếu nữ trẻ tuổi như cô ta.”

Phân tích:

Tác dụng của biện pháp nói mỉa:

Trường hợp b: Câu này sử dụng cách nói mỉa để chỉ trích sự nông nổi và thiếu suy nghĩ của A-mê-li-a. Thực tế, A-mê-li-a không thực sự khôn ngoan mà chỉ đơn thuần chấp nhận cuộc hôn nhân của anh trai mà không suy nghĩ sâu sắc. Câu này thể hiện sự mỉa mai đối với tính cách ngây thơ, dễ bị lừa của A-mê-li-a.

c, “Mỗi khi xuống nhà ăn cơm, cô lại khoác tay Giô đi, như là một điều dĩ nhiên; cô đã ngồi cạnh Giô trên chiếc xe riêng mui trần của anh ta (Giô thật là một con hươu đầu đàn lẫm liệt, vì anh ta ngồi rất bình thản trên xe tự điều khiển lấy đôi ngựa xám của mình).”

Phân tích:

Tác dụng của biện pháp nói mỉa:

Trường hợp c: Câu này mỉa mai sự tự mãn và tự phụ của Giô. Việc gọi Giô là “con hươu đầu đàn lẫm liệt” để chế giễu sự kiêu ngạo và thụ động của anh ta, khi mà việc điều khiển xe ngựa tự nhiên chỉ là chuyện bình thường với giới thượng lưu. Đây là một cách thể hiện sự châm biếm đối với thái độ ngạo mạn và sự thụ động của Giô.

d, “Tri phủ Xuân Trường được mấy niên, Nhờ trời hạt ấy cũng bình yên. Chữ ‘thôi’ chữ ‘cứu’ không phê đến, Ông chỉ quen phê một chữ ‘tiền’!”

Phân tích:

Tác dụng của biện pháp nói mỉa:

Trường hợp d: Câu thơ này mỉa mai sự thối nát và tham nhũng của tri phủ Xuân Trường. Việc phê bình tri phủ chỉ biết “phê một chữ ‘tiền’” để chỉ trích sự tham lam và vô trách nhiệm của quan chức, dù bề ngoài có vẻ yên bình. Điều này làm nổi bật sự trái ngược giữa bề ngoài và thực chất bên trong, đồng thời phơi bày sự giả dối và tồi tệ của hệ thống quan liêu.

Soạn bài Thực hành tiếng Việt trang 42 - Ngữ văn lớp 12 Chân trời sáng tạo (Tập 2) 1

Câu 2 (trang 43 SGK Ngữ văn 12 Tập 2): Chỉ ra và phân tích tác dụng của biện pháp tu từ nghịch ngữ trong các trường hợp sau:

a, “Thôi! Tôi đã nhất định… nói có vong hồn ông Đoan với ông Phán nhà tôi chứng giám cho, tôi đã nhất định thủ tiết với hai ông!”

Phân tích:

Tác dụng của biện pháp nghịch ngữ:

Trường hợp a: Câu này sử dụng nghịch ngữ để chế giễu sự không thành thật của bà Phó Đoan. Việc nói rằng bà sẽ “thủ tiết với hai ông chồng” mâu thuẫn với nghĩa thực của “thủ tiết” là giữ tiết hạnh với một người chồng. Điều này làm nổi bật tính lừa dối và sự giả dối trong hành vi của nhân vật, đồng thời tạo ra hiệu quả hài hước và mỉa mai.

b, “Tôi xin chịu một hình phạt êm đềm: Đôi môi tôi như hai kẻ hành hương rụt rè xin sẵn sàng xóa vết bàn tay thô bạo kia bằng một cái hôn trìu mến.”

Phân tích:

Tác dụng của biện pháp nghịch ngữ:

Trường hợp b: Sử dụng nghịch ngữ để thể hiện sự mâu thuẫn giữa hình phạt và hình thức hình phạt. Thay vì một hình phạt nghiêm khắc, nhân vật đề xuất một hình phạt nhẹ nhàng, như một cái hôn trìu mến, để xóa đi vết bàn tay thô bạo. Điều này không chỉ nhấn mạnh sự mâu thuẫn trong cảm nhận của nhân vật mà còn tạo ra sự tương phản hài hước giữa sự thô bạo và hành động mềm mại, đồng thời thể hiện sự hài hước trong cách người nói đối diện với hoàn cảnh.

Câu 3 (trang 43 SGK Ngữ văn 12 Tập 2): Trong hai trường hợp sử dụng biện pháp tu từ nghịch ngữ ở bài tập 2, trường hợp nào là nói mỉa? Dựa vào đâu bạn nhận định như vậy?

Trả lời: Trường hợp a là nói mỉa. Dựa vào cụm từ “thủ tiết với hai ông chồng,” Vũ Trọng Phụng sử dụng nghịch ngữ để chỉ trích sự không chân thành và lẳng lơ của bà Phó Đoan. Việc bà ta tự nhận mình giữ “tiết hạnh” khi thực tế đã có hai chồng là sự mỉa mai đối với hành động của bà và lố bịch trong việc thể hiện giá trị cá nhân. Câu này phơi bày sự giả dối và sự lừa dối của nhân vật, đồng thời tạo ra hiệu quả châm biếm và phê phán.

Câu hỏi (trang 43 sgk Ngữ văn 12 Tập 2): Viết một đoạn văn (khoảng 200 chữ) về sự khác biệt giữa tiểu thuyết và truyện ngắn. 

Đoạn văn tham khảo

Tiểu thuyết và truyện ngắn là hai thể loại văn học có sự khác biệt rõ rệt về quy mô và cấu trúc. Tiểu thuyết thường có phạm vi rộng lớn, với cốt truyện phát triển phức tạp và nhiều chi tiết. Nó thường khám phá sâu vào tâm lý nhân vật, với nhiều tuyến nhân vật phụ và các tình huống đa dạng, cho phép tác giả thể hiện những khía cạnh đa chiều của cuộc sống và nhân sinh. Ngược lại, truyện ngắn tập trung vào một ý tưởng, sự kiện hoặc khoảnh khắc đặc biệt, với cấu trúc đơn giản và ngắn gọn hơn. Nó thường chỉ có một hoặc hai nhân vật chính và một cốt truyện gọn gàng, nhằm tạo ra tác động mạnh mẽ trong một khoảng thời gian ngắn. Trong khi tiểu thuyết cho phép sự phát triển dài hơi và chi tiết, thì truyện ngắn nhấn mạnh sự cô đọng và súc tích. Mỗi thể loại mang đến cho người đọc những trải nghiệm khác nhau và phản ánh sự sáng tạo của nhà văn theo những cách đặc biệt.

Với những hướng dẫn soạn bài Thực hành tiếng Việt trang 42 – Ngữ văn lớp 12 Chân trời sáng tạo (Tập 2) chi tiết như trên. Hy vọng sẽ giúp các bạn nắm được những ý chính của tác phẩm này. Chúc các bạn có những bài soạn thật tốt, để thuận tiện trong quá trình tiếp thu bài giảng.