SOẠN VĂN BÀI BẢN SẮC LÀ HÀNH TRANG – SÁCH CÁNH DIỀU LỚP 10 TẬP 2

Hướng dẫn soạn bài Bản sắc là hành trang Sách Cánh Diều lớp 10 tập 2 chi tiết, đầy đủ nhất. Thông qua việc thực hành trả lời các câu hỏi trong phần hướng dẫn và bài tập, chúng ta có thể củng cố kiến thức cơ bản về tác phẩm này.

ĐỌC HIỂU VĂN BẢN

  1. Em hiểu như thế nào về nhan đề Bản sắc là hành trang? Nhan đề này cho em biết vấn đề tác giả bàn luận trong văn bản là gì? Vấn đề ấy có ý nghĩa như thế nào trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập?

Nhan đề “Bản sắc là hành trang” có hai ý nghĩa:

  • Bản sắc là những nét riêng, nét độc đáo trong văn hóa của mỗi quốc gia hay cá nhân nào đó. Bản sắc là nền tảng, là sức mạnh nội sinh, là cơ sở để mỗi cá nhân, dân tộc phát triển và hội nhập.
  • Hành trang là những gì cần thiết để đi đường. Trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập, bản sắc là hành trang cần thiết để mỗi cá nhân, dân tộc có thể giữ gìn, phát huy những giá trị tốt đẹp của mình, đồng thời tiếp thu có chọn lọc những tinh hoa văn hóa của nhân loại.

Vậy, vấn đề mà tác giả bàn luận trong văn bản là vấn đề bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập. Vấn đề này có ý nghĩa quan trọng đối với mỗi cá nhân, dân tộc trong thời kỳ hiện nay.

Trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập, các quốc gia, dân tộc có cơ hội giao lưu, tiếp xúc với nhau nhiều hơn. Điều này dẫn đến sự giao thoa, hòa nhập văn hóa. Tuy nhiên, bên cạnh những mặt tích cực, quá trình này cũng có thể dẫn đến sự phai nhạt bản sắc văn hóa của mỗi quốc gia, dân tộc.

  1. (Trang 96- Sách Cánh Diều lớp 10 tập 2)
Phần 1 Làm thế nào để hòa nhập nhưng không bị hòa tan
Phần 2 Bản sắc và việc giữ gìn bản sắc trong quá trình hội nhập
Phần 2 Khẳng định tầm quan trọng của giữ gìn bản sắc dân tộc
  1. Phân tích những biểu hiện của bản sắc dân tộc Việt Nam được tác giả nêu lên trong văn bản Bản sắc là hành trang. Em có thể bổ sung những biểu hiện nào khác của bản sắc dân tộc?

Trong văn bản Bản sắc là hành trang, tác giả Nguyễn Tuân đã nêu lên những biểu hiện của bản sắc dân tộc Việt Nam như sau:

  • Tôn trọng con người: Đó là truyền thống “uống nước nhớ nguồn”, “ăn quả nhớ kẻ trồng cây”, “tôn sư trọng đạo”, “thương người như thể thương thân”, “lá lành đùm lá rách”, “tương thân tương ái”, “tình làng nghĩa xóm”, “tình yêu thương gia đình”, “tình yêu quê hương đất nước”…

Biểu hiện này thể hiện ở lòng nhân ái, vị tha, tinh thần tương thân tương ái, đoàn kết gắn bó của người Việt Nam. Đây là những giá trị tốt đẹp, cần được gìn giữ và phát huy.

  • Có ý thức cộng đồng: Đó là truyền thống “tương thân tương ái”, “lá lành đùm lá rách”, “tình làng nghĩa xóm”, “tình yêu thương gia đình”, “tình yêu quê hương đất nước”…

Biểu hiện này thể hiện ở tinh thần gắn bó, đoàn kết, sẵn sàng giúp đỡ nhau trong lúc khó khăn. Đây cũng là một giá trị tốt đẹp, cần được gìn giữ và phát huy.

  • Có ý thức tự chủ, tự cường: Đó là truyền thống “tự lực cánh sinh”, “sống trên đôi vai của mình”, “nước lấy dân làm gốc”, “dân là gốc của nước”, “dân chủ là bản chất của chế độ ta”, “công bằng, dân chủ, văn minh”…

Biểu hiện này thể hiện ở tinh thần tự lập, tự cường, ý chí tự chủ, tự quyết của người Việt Nam. Đây là một giá trị quan trọng, cần được gìn giữ và phát huy trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập.

  • Có tinh thần yêu nước, ý chí kiên cường: Đó là truyền thống “đánh giặc giữ nước”, “non sông gấm vóc do tiên tổ ta dựng nên”, “còn nước còn nhà”, “còn người còn nước”, “thà hy sinh tất cả chứ không chịu mất nước”, “nhất định thắng giặc”…

Biểu hiện này thể hiện ở lòng yêu nước nồng nàn, ý chí kiên cường bất khuất của người Việt Nam. Đây là một giá trị cốt lõi, cần được gìn giữ và phát huy trong mọi thời đại.

  • Có ý thức vươn lên, sáng tạo: Đó là truyền thống “dám nghĩ, dám làm”, “bàn tay ta làm nên tất cả”, “có công mài sắt, có ngày nên kim”, “nhất nghệ tinh, nhất thân vinh”…

Biểu hiện này thể hiện ở tinh thần ham học hỏi, sáng tạo, ý chí vươn lên, vượt khó của người Việt Nam. Đây là một giá trị cần được gìn giữ và phát huy trong thời kỳ hội nhập và phát triển.

  1. Phân tích mối quan hệ giữa hiện đại và truyền thống, cái riêng và cái chung được tác giả nêu lên qua ví dụ về chiếc xe Lếch-xớt và cây ô liu.

Trong văn bản “Bản sắc là hành trang”, tác giả Nguyễn Tuân đã nêu lên mối quan hệ giữa hiện đại và truyền thống, cái riêng và cái chung qua ví dụ về chiếc xe Lếch-xớt và cây ô liu.

Chiếc xe Lếch-xớt là biểu tượng của hiện đại, của sự phát triển, của tốc độ. Chiếc xe này có thể đưa con người đến bất cứ nơi đâu trên thế giới, giúp con người giao lưu, tiếp thu những tinh hoa văn hóa của nhân loại. Tuy nhiên, chiếc xe Lếch-xớt cũng có thể khiến con người bị cuốn vào vòng xoáy của tốc độ, của sự hưởng thụ, từ đó đánh mất bản sắc của mình.

Cây ô liu là biểu tượng của truyền thống, của giá trị văn hóa lâu đời. Cây ô liu là biểu tượng của hòa bình, của sự gắn bó với thiên nhiên. Cây ô liu nhắc nhở con người cần gìn giữ những giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc.

Tác giả Nguyễn Tuân đã sử dụng hai hình ảnh đối lập này để làm nổi bật mối quan hệ giữa hiện đại và truyền thống. Hiện đại và truyền thống không phải là hai khái niệm đối lập, mà là hai mặt bổ sung cho nhau. Hiện đại giúp con người phát triển, nhưng cũng có thể khiến con người đánh mất bản sắc. Truyền thống giúp con người giữ gìn những giá trị tốt đẹp, nhưng cũng có thể khiến con người lạc hậu, tụt hậu.

Cái riêng và cái chung cũng có mối quan hệ tương tự. Cái riêng là những giá trị đặc trưng, riêng biệt của mỗi cá nhân, dân tộc. Cái chung là những giá trị chung của nhân loại. Cái riêng giúp con người thể hiện bản sắc của mình, nhưng cũng có thể khiến con người trở nên biệt lập, xa lạ với cộng đồng. Cái chung giúp con người gắn kết với cộng đồng, nhưng cũng có thể khiến con người đánh mất bản sắc của mình.

Để hòa nhập mà không hòa tan, mỗi cá nhân, dân tộc cần biết kết hợp hài hòa giữa hiện đại và truyền thống, giữa cái riêng và cái chung. Cần tiếp thu tinh hoa văn hóa của nhân loại một cách có chọn lọc, không làm mất đi bản sắc văn hóa dân tộc. Cần biết phát huy những giá trị riêng của mình, không chạy theo những giá trị tầm thường, phù phiếm của xã hội.

  1. Tác giả có thái độ như thế nào đối với vấn đề bản sắc và hội nhập toàn cầu hoá? Dẫn ra một số câu văn, đoạn văn trong văn bản thể hiện rõ thái độ ấy.

Tác giả Nguyễn Tuân có thái độ rất tích cực đối với vấn đề bản sắc và hội nhập toàn cầu hóa. Ông cho rằng, bản sắc là hành trang cần thiết để mỗi cá nhân, dân tộc có thể hội nhập mà không bị tan biến vào thế giới.

Tác giả khẳng định rằng, bản sắc là những giá trị tốt đẹp, là nền tảng tinh thần, là sức mạnh nội sinh của mỗi dân tộc. Bản sắc giúp con người định hình bản thân, gắn kết với cộng đồng, và góp phần làm nên bản sắc của nhân loại.

Tác giả cũng nhận thức được rằng, hội nhập toàn cầu hóa là một xu thế tất yếu của thời đại. Hội nhập giúp con người giao lưu, học hỏi, tiếp thu những tinh hoa văn hóa của nhân loại. Tuy nhiên, hội nhập cũng có thể khiến con người đánh mất bản sắc của mình.

Trước thực trạng đó, tác giả Nguyễn Tuân đã đưa ra quan điểm rằng, để hội nhập mà không bị tan biến, mỗi cá nhân, dân tộc cần biết kết hợp hài hòa giữa hiện đại và truyền thống, giữa cái riêng và cái chung. Cần tiếp thu tinh hoa văn hóa của nhân loại một cách có chọn lọc, không làm mất đi bản sắc văn hóa dân tộc. Cần biết phát huy những giá trị riêng của mình, không chạy theo những giá trị tầm thường, phù phiếm của xã hội.

Một số câu văn, đoạn văn trong văn bản thể hiện rõ thái độ của tác giả đối với vấn đề bản sắc và hội nhập toàn cầu hóa:

  • “Bản sắc là hành trang không thể thiếu trong cuộc hành trình hội nhập và phát triển của mỗi dân tộc.”
  • “Chiếc xe Lếch-xớt vẫn có thể trang điểm cho cây ô liu, nhưng cây ô liu không thể biến thành chiếc xe Lếch-xớt.”
  • “Để hội nhập mà không bị tan biến, chúng ta cần biết kết hợp hài hòa giữa hiện đại và truyền thống, giữa cái riêng và cái chung.”

Thái độ tích cực của tác giả Nguyễn Tuân đối với vấn đề bản sắc và hội nhập toàn cầu hóa là một quan điểm đúng đắn và cần được quan tâm, thực hiện trong thời đại ngày nay.

  1. Em hiểu như thế nào về câu kết của bài viết: “Giữ gìn bản sắc của dân tộc không chỉ là phương châm hành động, mà còn là bản năng tồn tại của chúng ta.”? Vấn đề đặt ra trong văn bản trên có ý nghĩa gì với cá nhân em?

Trong câu kết của bài viết “Bản sắc là hành trang”, tác giả Nguyễn Tuân đã khẳng định rằng, giữ gìn bản sắc dân tộc không chỉ là một phương châm hành động, mà còn là một bản năng tồn tại của mỗi con người.

Tác giả cho rằng, bản sắc dân tộc là những giá trị tốt đẹp, là nền tảng tinh thần, là sức mạnh nội sinh của mỗi dân tộc. Bản sắc giúp con người định hình bản thân, gắn kết với cộng đồng, và góp phần làm nên bản sắc của nhân loại.

Vì vậy, giữ gìn bản sắc dân tộc là một việc làm cần thiết và quan trọng đối với mỗi con người. Đó là hành động thể hiện tình yêu quê hương, đất nước, là trách nhiệm của mỗi người đối với bản thân, đối với cộng đồng và đối với dân tộc.

Đối với cá nhân em, vấn đề đặt ra trong văn bản trên có ý nghĩa rất quan trọng. Em hiểu rằng, bản sắc dân tộc là một phần không thể thiếu trong cuộc sống của mỗi người. Bản sắc giúp em hiểu rõ hơn về cội nguồn của mình, về những giá trị tốt đẹp của dân tộc, từ đó giúp em có thêm động lực để sống và cống hiến cho quê hương, đất nước.

Em cũng nhận thức được rằng, trong bối cảnh hội nhập toàn cầu hóa hiện nay, việc giữ gìn bản sắc dân tộc càng trở nên quan trọng hơn bao giờ hết. Mỗi người cần có ý thức gìn giữ và phát huy những giá trị tốt đẹp của dân tộc, tránh bị hòa tan trong dòng chảy của toàn cầu hóa.

Cụ thể, em sẽ nỗ lực học tập, rèn luyện để trở thành một người công dân tốt, có ích cho xã hội. Em sẽ tích cực tham gia các hoạt động văn hóa, văn nghệ, thể thao để tìm hiểu và phát huy những giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc. Em cũng sẽ phê phán những hành vi làm tổn hại đến bản sắc dân tộc. Em tin rằng, mỗi người Việt Nam hãy cùng chung tay gìn giữ và phát huy bản sắc dân tộc, để xây dựng một đất nước Việt Nam giàu đẹp, văn minh.

Với những hướng dẫn soạn bài Bản sắc là hành trang – Sách Cánh Diều lớp 10 tập 2 chi tiết như trên. Hy vọng sẽ giúp các bạn nắm được những ý chính của tác phẩm này. Chúc các bạn có những bài soạn thật tốt, để thuận tiện trong quá trình tiếp thu bài giảng.