Soạn bài Viết văn bản nghị luận về một tác phẩm văn học (kịch bản văn học) hoặc tác phẩm nghệ thuật (bộ phim)
Hướng dẫn soạn bài Viết văn bản nghị luận về một tác phẩm văn học (kịch bản văn học) hoặc tác phẩm nghệ thuật (bộ phim) – Sách Chân trời sáng tạo lớp 11 chi tiết, đầy đủ nhất. Thông qua việc thực hành trả lời các câu hỏi trong phần hướng dẫn và bài tập, chúng ta có thể củng cố kiến thức cơ bản về bài học này.
Câu 1 (trang 136, SGK Ngữ Văn 11, tập một):
Vấn đề nghị luận trong văn bản là gì?
Trả lời
Vấn đề nghị luận trong văn bản là xung đột trong bi kịch Vũ Như Tô.
Câu 2 (trang 136, SGK Ngữ Văn 11, tập một):
Người viết đã đưa ra những lí lẽ, bằng chứng nào để khẳng định: xung đột quyết liệt trong tác phẩm bi kịch Vũ Như Tô của Nguyễn Huy Tưởng là xung đột giữa nghệ sĩ và nhân dân trong văn bản?
Trả lời
Đoạn văn khẳng định xung đột quyết liệt trong tác phẩm bi kịch Vũ Như Tô của Nguyễn Huy Tưởng là xung đột giữa nghệ sĩ và nhân dân:
Trong tác phẩm bi kịch Vũ Như Tô của Nguyễn Huy Tưởng, xung đột quyết liệt được thể hiện ở mối quan hệ giữa hai lực lượng đối kháng: Vũ Như Tô và nhân dân.
Vũ Như Tô là một nghệ sĩ tài hoa, có tâm huyết với nghệ thuật, muốn xây dựng một công trình nghệ thuật vĩ đại để lưu danh hậu thế. Tuy nhiên, để thực hiện được ước mơ đó, ông đã phải dựa vào thế lực của Lê Tương Dực, một hôn quân bạo ngược. Ông đã sử dụng sức lao động của nhân dân để xây dựng Cửu Trùng Đài, khiến cho nhân dân vô cùng khổ cực.
Quyền lợi của quần chúng nhân dân được tác giả bênh vực bằng những phương tiện nghệ thuật đầy thuyết phục. Nhân vật Đan Thiềm, một người yêu nghệ thuật chân chính, cũng đồng thời là người am hiểu đời sống nhân dân, đã lên tiếng tố cáo tội ác của Vũ Như Tô. Bà cho rằng, những người nghệ sĩ không được phép chà đạp lên quyền lợi của nhân dân để thực hiện ước mơ nghệ thuật của mình.
So sánh công trình Cửu Trùng Đài với cuộc chiến tranh nước ngoài đã cho thấy sự khốc liệt của xung đột giữa nghệ sĩ và nhân dân. Cửu Trùng Đài được xây dựng trên xương máu, nước mắt của nhân dân. Nhân dân đã phải chịu đựng biết bao đau khổ, mất mát để phục vụ cho ước mơ nghệ thuật của Vũ Như Tô.
Cuối cùng, xung đột giữa Vũ Như Tô và nhân dân đã dẫn đến bi kịch. Cửu Trùng Đài bị thiêu rụi, Vũ Như Tô và Đan Thiềm phải tự vẫn. Bi kịch này đã cho thấy mối quan hệ giữa nghệ thuật và nhân dân là mối quan hệ hữu cơ, không thể tách rời. Nghệ thuật chân chính phải phục vụ cho lợi ích của nhân dân, không được phép chà đạp lên quyền lợi của nhân dân.
Câu 3 (trang 136, SGK Ngữ Văn 11, tập một):
Bạn rút ra được lưu ý gì khi viết văn bản nghị luận về một vở bi kịch từ văn bản trên?
Trả lời
Đoạn văn về những lưu ý khi viết văn bản nghị luận về một vở kịch:
Khi viết văn bản nghị luận về một vở kịch, cần lưu ý những điểm sau:
- Lựa chọn vấn đề bàn luận phù hợp: Nội dung, hình thức của một vở kịch thường có nhiều khía cạnh, vấn đề. Do đó, cần lựa chọn vấn đề bàn luận phù hợp với nội dung của vở kịch và khả năng của người viết.
- Các luận điểm cần rõ ràng, mạch lạc: Các luận điểm cần được trình bày một cách rõ ràng, mạch lạc, có sự liên kết chặt chẽ với nhau để làm sáng tỏ luận đề bài viết.
- Khẳng định lại luận đề sau khi phân tích: Sau khi phân tích các luận điểm, cần khẳng định lại luận đề bài viết một cách rõ ràng, ngắn gọn.
Ví dụ, khi viết bài nghị luận về tác phẩm bi kịch Vũ Như Tô của Nguyễn Huy Tưởng, có thể lựa chọn những vấn đề sau để bàn luận:
- Vấn đề xung đột trong bi kịch Vũ Như Tô.
- Vấn đề mối quan hệ giữa nghệ sĩ và nhân dân trong bi kịch Vũ Như Tô.
- Vấn đề giá trị tư tưởng và nghệ thuật của bi kịch Vũ Như Tô.
Sau khi lựa chọn được vấn đề bàn luận, cần tiến hành phân tích các luận điểm một cách rõ ràng, mạch lạc. Các luận điểm cần có sự liên kết chặt chẽ với nhau để làm sáng tỏ luận đề bài viết. Cuối cùng, cần khẳng định lại luận đề bài viết một cách rõ ràng, ngắn gọn.
Ngoài ra, khi viết văn bản nghị luận về một vở kịch, cần sử dụng ngôn ngữ chính xác, sáng sủa, phù hợp với đối tượng tiếp nhận. Đồng thời, cần tránh mắc lỗi chính tả, lỗi diễn đạt.
Câu 4 (trang 137, SGK Ngữ Văn 11, tập một):
Vấn đề nghị luận trong văn bản.
Trả lời
Vấn đề nghị luận trong văn bản: Ám ảnh nước trong Mùa len trâu
Câu 5 (trang 137, SGK Ngữ Văn 11, tập một):
Việc người viết trích dẫn ý kiến của Nguyễn Võ Nghiêm Minh, đạo diễn phim Mùa len trâu và nhiều lần liên hệ đến tập truyện Hương rừng Cà Mau của Sơn Nam nhằm dụng ý gì?
Trả lời
Trong bài viết Ám ảnh nước trong Mùa len trâu, người viết đã nhiều lần trích dẫn ý kiến của đạo diễn Nguyễn Võ Nghiêm Minh và liên hệ đến tập truyện Hương rừng Cà Mau của Sơn Nam. Việc làm này nhằm hai dụng ý chính:
- Thứ nhất, đưa dẫn chứng cụ thể để làm rõ và xác thực quá trình chuyển thể từ truyện sang phim. Ý kiến của đạo diễn Nguyễn Võ Nghiêm Minh là một minh chứng xác thực cho những nhận định của người viết về cách sử dụng hình tượng nước trong Mùa len trâu. Liên hệ đến tập truyện Hương rừng Cà Mau của Sơn Nam giúp người đọc có thêm một góc nhìn, một sự so sánh, đối chiếu để hiểu rõ hơn về quá trình chuyển thể từ truyện sang phim.
- Thứ hai, thể hiện ý kiến về hình tượng nước trong phim thông qua tác phẩm và giá trị hiện thực của người đạo diễn. Việc trích dẫn ý kiến của đạo diễn Nguyễn Võ Nghiêm Minh cho thấy hình tượng nước trong Mùa len trâu là một hình tượng được nhà làm phim tâm huyết, tỉ mỉ chăm chút. Liên hệ đến tập truyện Hương rừng Cà Mau của Sơn Nam giúp người đọc thấy được sự sáng tạo, độc đáo của nhà làm phim trong việc sử dụng hình tượng nước.
Cụ thể, trong bài viết, tác giả đã trích dẫn ý kiến của đạo diễn Nguyễn Võ Nghiêm Minh như sau:
“Nước trong Mùa len trâu là một hình tượng xuyên suốt, trở thành một thứ ngôn ngữ phim truyện riêng, độc đáo. Nước là hiện thân của thiên nhiên, của quá khứ, của tương lai. Nước mang đến cho người xem những suy nghĩ sâu sắc về mối quan hệ giữa con người với thiên nhiên, với quá khứ và tương lai.”
Ý kiến này của đạo diễn Nguyễn Võ Nghiêm Minh đã khẳng định tầm quan trọng của hình tượng nước trong Mùa len trâu. Nước không chỉ là một yếu tố của thiên nhiên, mà còn là một hình tượng nghệ thuật mang nhiều ý nghĩa biểu tượng.
Tác giả cũng nhiều lần liên hệ đến tập truyện Hương rừng Cà Mau của Sơn Nam. Ví dụ, tác giả đã so sánh hình tượng nước trong Mùa len trâu với hình tượng nước trong Hương rừng Cà Mau như sau:
“Cũng như nước trong Hương rừng Cà Mau, nước trong Mùa len trâu là một hình tượng đa nghĩa, ẩn chứa nhiều tầng ý nghĩa. Nước là hiện thân của thiên nhiên hùng vĩ, bao la. Nước là biểu tượng của quá khứ, của những ký ức đẹp đẽ, tươi sáng. Nước cũng là biểu tượng của tương lai, của sự đổi thay, phát triển.”
So sánh này giúp người đọc thấy được sự tương đồng và khác biệt giữa hình tượng nước trong hai tác phẩm. Nước trong Mùa len trâu cũng mang những ý nghĩa biểu tượng tương tự như nước trong Hương rừng Cà Mau, nhưng lại có những nét độc đáo riêng, phù hợp với nội dung và chủ đề của tác phẩm.
Tóm lại, việc trích dẫn ý kiến của Nguyễn Võ Nghiêm Minh, đạo diễn phim Mùa len trâu và nhiều lần liên hệ đến tập truyện Hương rừng Cà Mau của Sơn Nam đã góp phần làm tăng tính thuyết phục và làm nổi bật giá trị nghệ thuật của hình tượng nước trong Mùa len trâu.
Câu 6 (trang 137, SGK Ngữ Văn 11, tập một):
Viết văn bản nghị luận về một tác phẩm phim truyện có gì giống và khác với viết văn bản nghị luận về một kịch bản văn học?
Trả lời
Giống nhau
- Cả hai đều là loại văn bản nghị luận văn học, có mục đích bàn luận, đánh giá về một tác phẩm nghệ thuật.
- Cả hai đều cần có bố cục rõ ràng, mạch lạc, có luận điểm, luận cứ và luận chứng.
- Cả hai đều cần sử dụng ngôn ngữ chính xác, sáng sủa, phù hợp với đối tượng tiếp nhận.
Khác nhau
- Văn bản nghị luận về một tác phẩm phim truyện bàn luận về một tác phẩm được dựng thành phim, do đó cần có những hiểu biết về điện ảnh, về ngôn ngữ điện ảnh, về những đặc trưng của thể loại phim truyện.
- Văn bản nghị luận về một kịch bản văn học bàn luận về một kịch bản chưa được dựng thành phim, do đó cần có những hiểu biết về kịch bản, về ngôn ngữ kịch bản, về những đặc trưng của thể loại kịch bản.
Ví dụ, khi viết văn bản nghị luận về một tác phẩm phim truyện, người viết cần chú ý đến những yếu tố sau:
- Cần xem xét tác phẩm phim truyện trong mối quan hệ với các yếu tố của điện ảnh, như: bố cục, dựng phim, quay phim, ánh sáng, âm thanh, diễn xuất,…
- Cần phân tích tác phẩm phim truyện dưới góc độ của nghệ thuật điện ảnh, như: sử dụng ngôn ngữ điện ảnh để thể hiện nội dung, ý nghĩa của tác phẩm; sử dụng các kỹ thuật điện ảnh để tạo hiệu quả nghệ thuật;…
Ví dụ, khi viết văn bản nghị luận về một kịch bản văn học, người viết cần chú ý đến những yếu tố sau:
- Cần xem xét kịch bản văn học trong mối quan hệ với các yếu tố của kịch bản, như: bố cục, nhân vật, cốt truyện, xung đột,…
- Cần phân tích kịch bản văn học dưới góc độ của nghệ thuật kịch bản, như: sử dụng ngôn ngữ kịch bản để thể hiện nội dung, ý nghĩa của tác phẩm; sử dụng các hình thức kịch bản để tạo hiệu quả nghệ thuật;…
Câu 7 (trang 137, SGK Ngữ Văn 11, tập một):
Câu lạc bộ Văn học – Nghệ thuật của trường bạn tổ chức cuộc thi viết về Tác phẩm sân khấu – điện ảnh tôi yêu. Để tham gia, hãy viết văn bản nghị luận nhận xét về nội dung và hình thức nghệ thuật của một kịch bản văn học hoặc một bộ phim mà bạn yêu thích.
Trả lời
Vĩnh biệt Cửu Trùng Đài là một trong những vở kịch xuất sắc nhất của nhà văn Nguyễn Huy Tưởng. Vở kịch đã phản ánh chân thực cuộc sống của nhân dân dưới ách đô hộ của giai cấp phong kiến, đồng thời thể hiện khát vọng tự do, khát vọng sống của con người.
Vĩnh biệt Cửu Trùng Đài kể về cuộc đời của Vũ Như Tô – một kiến trúc sư tài ba nhưng lại mang trong mình khát vọng xây dựng một công trình nghệ thuật vĩ đại để lưu danh hậu thế. Vũ Như Tô được vua Lê Tương Dực giao cho xây dựng Cửu Trùng Đài, một công trình kiến trúc hoành tráng, lộng lẫy. Để thực hiện được khát vọng của mình, Vũ Như Tô đã huy động hàng vạn dân phu lao động cật lực, không kể ngày đêm. Tuy nhiên, Cửu Trùng Đài là một công trình tốn kém, tốn nhân lực, khiến nhân dân thêm khổ cực. Cuộc sống của nhân dân ngày càng trở nên cơ cực, họ đã nổi dậy khởi nghĩa. Vũ Như Tô bị bắt và bị xử tử, Cửu Trùng Đài bị đốt cháy.
Vở kịch đã phản ánh một cách chân thực cuộc sống của nhân dân dưới ách đô hộ của giai cấp phong kiến. Nhân dân bị áp bức, bóc lột đến tận cùng, không có quyền tự do, hạnh phúc. Họ phải sống trong cảnh khổ cực, lầm than. Vũ Như Tô là một nhân vật bi kịch. Ông là một người tài năng, có khát vọng cao đẹp nhưng lại không nhận thức được thực tế. Ông đã quên đi nỗi khổ của nhân dân, chỉ biết theo đuổi khát vọng nghệ thuật của mình.
Vĩnh biệt Cửu Trùng Đài được xây dựng theo lối bi kịch cổ điển. Vở kịch có bố cục chặt chẽ, mạch lạc, các nhân vật được xây dựng sinh động, có tính cách, số phận riêng. Ngôn ngữ kịch bản giàu hình ảnh, biểu cảm, phù hợp với thể loại bi kịch. Việc sử dụng ngôn ngữ kịch bản giàu hình ảnh, biểu cảm đã góp phần thể hiện nội dung tư tưởng của tác phẩm. Ngôn ngữ kịch bản đã giúp người đọc, người xem hình dung được cuộc sống cơ cực của nhân dân dưới ách đô hộ của giai cấp phong kiến.
Vở kịch đã phản ánh một cách chân thực cuộc sống của nhân dân dưới ách đô hộ của giai cấp phong kiến. Nhân dân bị áp bức, bóc lột đến tận cùng, không có quyền tự do, hạnh phúc. Họ phải sống trong cảnh khổ cực, lầm than. Vở kịch cũng thể hiện khát vọng tự do, khát vọng sống của con người. Vở kịch có bố cục chặt chẽ, mạch lạc, các nhân vật được xây dựng sinh động, có tính cách, số phận riêng. Ngôn ngữ kịch bản giàu hình ảnh, biểu cảm, phù hợp với thể loại bi kịch.
Vĩnh biệt Cửu Trùng Đài là một vở kịch xuất sắc của nhà văn Nguyễn Huy Tưởng. Vở kịch đã để lại trong lòng người đọc, người xem những ấn tượng sâu sắc và có ý nghĩa lâu dài.
Với những hướng dẫn soạn bài Viết văn bản nghị luận về một tác phẩm văn học (kịch bản văn học) hoặc tác phẩm nghệ thuật (bộ phim) – Sách Chân trời sáng tạo lớp 11 chi tiết như trên. Hy vọng sẽ giúp các bạn nắm được những ý chính của bài học này. Chúc các bạn có những bài soạn thật tốt, để thuận tiện trong quá trình tiếp thu bài giảng.