Top 15+ phân tích Việt bắc tuyển chọn các mẫu hay nhất

Dưới đây là các mẫu bài Phân tích Việt Bắc hay và ngắn gọn, nhằm giúp các em học sinh có thêm tài liệu tham khảo để có thể soạn 1 bài Phân tích sao cho hay và ý nghĩa nhất, sau đây là nội dung chi tiết xin mời các bạn tham khảo.

Dàn ý Phân tích bài Việt Bắc

Mở bài

Giới thiệu khái quát về tác giả Tố Hữu và bài thơ Việt Bắc.

Giới thiệu về hoàn cảnh sáng tác bài thơ.

Thân bài

Lời của người ở lại

Bốn câu thơ đầu:

Câu hỏi tu từ “Mình về mình có nhớ ta/ Ta về ta nhớ những hoa cùng người” mở ra một cuộc đối thoại giữa người ở lại và người ra đi.

Từ láy “bâng khuâng”, “bồn chồn” gợi tả tâm trạng lưu luyến, bịn rịn của người ở lại.

12 câu tiếp theo:

Kể về những kỉ niệm đẹp của người ở lại và người ra đi:

Kỉ niệm về thiên nhiên Việt Bắc: “Nhớ khi giặc đến giặc lùng/ Nhớ khi ta cùng nhau buộc tóc/ Nhớ khi ta cùng nhau kháng Nhật/ Nhớ khi ta cùng nhau kháng chiến”.

Kỉ niệm về con người Việt Bắc: “Nhớ những bản làng xa xa/ Nhớ từng bản khói cùng sương/ Nhớ từng rừng nứa bờ tre/ Nhớ từng con đường đi tới”.

Kỉ niệm về tình quân dân: “Nhớ sao tiếng mõ rừng chiều/ Nhớ sao tiếng gọi bạn tình/ Nhớ sao tiếng ai tha thiết/Bảo nhau tin cậy đi lên”.

Lời của người ra đi

Bốn câu đầu:

Câu hỏi tu từ “Ta đi có nhớ những ngày/Mưa nguồn suối lũ những mây cùng mù” gợi mở một cuộc đối thoại giữa người ra đi và người ở lại.

Từ láy “bâng khuâng”, “bồn chồn” gợi tả tâm trạng lưu luyến, bịn rịn của người ra đi.

12 câu tiếp theo:

Kể về những kỉ niệm đẹp của người ra đi và người ở lại:

Kỉ niệm về thiên nhiên Việt Bắc: “Mình về mình có nhớ ta/ Ta về ta nhớ những hoa cùng người/ Nhớ bản làng ngày xưa/Sương giăng mờ trận địa/Nhớ ai tiếng hát ân tình/Bước chân nát đá muôn trùng xa”.

Kỉ niệm về con người Việt Bắc: “Nhớ tiếng mõ rừng chiều/Nhớ tiếng ai tha thiết/Bảo nhau tin cậy đi lên”.

Kỉ niệm về tình quân dân: “Nhớ sao tiếng mõ rừng chiều/Nhớ sao tiếng gọi bạn tình/Nhớ sao tiếng ai tha thiết/Bảo nhau tin cậy đi lên”.

Kết bài

Khái quát lại nội dung và nghệ thuật của bài thơ.

Đánh giá ý nghĩa của bài thơ.

Phân tích 8 câu đầu Việt Bắc

Bài thơ Việt Bắc của Tố Hữu là một trong những bài thơ hay nhất viết về tình cảm cách mạng, tình quân dân thắm thiết. Bài thơ được sáng tác năm 1954, nhân dịp Trung ương Đảng và Chính phủ rời chiến khu Việt Bắc về tiếp quản thủ đô Hà Nội.

8 câu đầu bài thơ là lời của người ở lại tha thiết hỏi người ra đi về những kỉ niệm gắn bó của họ trong suốt 15 năm kháng chiến gian khổ nhưng hào hùng. Kỉ niệm ấy được gợi lại qua những hình ảnh thiên nhiên thơ mộng, những con người chân chất, mộc mạc mà giàu lòng yêu nước của Việt Bắc.

Mở đầu bài thơ, tác giả sử dụng hình thức đối đáp giữa người ở lại và người ra đi. Câu hỏi tu từ “Mình về mình có nhớ ta/ Ta về ta nhớ những hoa cùng người” đã mở ra một cuộc đối thoại đầy lưu luyến, bịn rịn.

Cụm từ “mình về” và “ta về” vừa là lời nói của người ở lại vừa là lời nói của người ra đi. Nó vừa thể hiện sự chia ly, vừa thể hiện sự gắn bó, khăng khít của hai bên.

Từ láy “bâng khuâng”, “bồn chồn” được sử dụng để diễn tả tâm trạng của người ở lại. Hai từ láy này gợi lên nỗi nhớ nhung, lưu luyến, bồi hồi của người ở lại khi tiễn người ra đi.

Kế tiếp, người ở lại gợi lại những kỉ niệm đẹp của họ với người ra đi trong suốt 15 năm kháng chiến.

Kỉ niệm đầu tiên được nhắc đến là kỉ niệm về thiên nhiên Việt Bắc. Người ở lại nhớ về “cọ bờ tre”, “nhớ từng bản khói cùng sương”, “nhớ từng rừng nứa bờ tre”, “nhớ từng con đường đi tới”. Đó là những hình ảnh thiên nhiên thơ mộng, trữ tình của Việt Bắc. Thiên nhiên Việt Bắc đã gắn bó với những người kháng chiến, trở thành một phần của cuộc đời họ.

Kỉ niệm tiếp theo được nhắc đến là kỉ niệm về con người Việt Bắc. Người ở lại nhớ về “người đi rừng còn nhớ”, “người đi biển còn thương”, “cầm tay nhau biết nói gì hôm nay”. Đó là những con người chân chất, mộc mạc nhưng giàu lòng yêu nước. Con người Việt Bắc đã cùng với những người kháng chiến vượt qua biết bao gian khổ, khó khăn để giành thắng lợi.

Kỉ niệm cuối cùng được nhắc đến là kỉ niệm về tình quân dân. Người ở lại nhớ về “tiếng mõ rừng chiều”, “tiếng hát ân tình”, “bảo nhau tin cậy đi lên”. Đó là những kỉ niệm về tình cảm gắn bó, keo sơn giữa quân và dân. Tình quân dân đã trở thành sức mạnh to lớn giúp quân dân Việt Nam giành thắng lợi trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp.

8 câu đầu bài thơ Việt Bắc đã thể hiện sâu sắc tình cảm cách mạng, tình quân dân thắm thiết. Kỉ niệm về những năm tháng kháng chiến gian khổ nhưng hào hùng đã được tái hiện một cách chân thực, sống động qua những hình ảnh thiên nhiên thơ mộng, con người chân chất, mộc mạc mà giàu lòng yêu nước.

Phân tích bức tranh tứ bình Việt Bắc

Bài thơ Việt Bắc của Tố Hữu là một trong những bài thơ kháng chiến tiêu biểu nhất của văn học Việt Nam. Bài thơ đã tái hiện một cách chân thực và sinh động bức tranh thiên nhiên và con người Việt Bắc trong kháng chiến. Trong đó, bức tranh tứ bình Việt Bắc là một trong những đoạn thơ đẹp và ấn tượng nhất của bài thơ.

Bức tranh tứ bình Việt Bắc được mở ra với hình ảnh mùa xuân:

Mùa xuân mơ nở trắng rừng

Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang

Mùa xuân là mùa của trăm hoa đua nở, trăm chim ca hót líu lo. Ở Việt Bắc, mùa xuân cũng mang một vẻ đẹp tinh khiết, trong sáng với những bông hoa mơ trắng xóa cả núi rừng. Hình ảnh “mơ nở trắng rừng” vừa gợi lên vẻ đẹp của thiên nhiên, vừa gợi lên sự trù phú, tươi mới của núi rừng Việt Bắc. Trong khung cảnh mùa xuân tươi đẹp ấy, hình ảnh người dân Việt Bắc hiện lên với công việc chuốt từng sợi giang để đan nón, thể hiện sự cần cù, khéo léo và tài hoa của họ.

Mùa hè ở Việt Bắc cũng mang một vẻ đẹp đặc trưng:

Rừng phách đổ vàng theo tháng năm

Nhớ cô em gái hái măng một mình

Mùa hè là mùa của những cánh đồng lúa chín vàng óng ả. Ở Việt Bắc, mùa hè cũng mang một vẻ đẹp rực rỡ với những cánh rừng phách đổ vàng theo tháng năm. Hình ảnh “rừng phách đổ vàng” đã gợi lên một khung cảnh thiên nhiên tuyệt đẹp, vừa hùng vĩ, vừa thơ mộng. Trong khung cảnh ấy, hình ảnh người dân Việt Bắc hiện lên với công việc hái măng, thể hiện sự cần cù, chịu thương chịu khó và gắn bó với thiên nhiên của họ.

Mùa thu ở Việt Bắc mang một vẻ đẹp dịu dàng, thanh bình:

Nhớ cô em gái xay ngô tối bếp

Nhớ người đi cấy về quạt nồng mồ hôi

Mùa thu là mùa của những cánh đồng lúa chín vàng, của những cơn gió heo may se lạnh. Ở Việt Bắc, mùa thu cũng mang một vẻ đẹp dịu dàng, thanh bình với những hình ảnh cô em gái xay ngô tối bếp, người đi cấy về quạt nồng mồ hôi. Hình ảnh “cô em gái xay ngô tối bếp” vừa gợi lên vẻ đẹp dịu dàng, vừa gợi lên sự cần cù, chịu thương chịu khó của người dân Việt Bắc. Hình ảnh “người đi cấy về quạt nồng mồ hôi” lại gợi lên sự lam lũ, vất vả nhưng cũng rất đỗi chân chất, mộc mạc của người dân nơi đây.

Mùa đông ở Việt Bắc mang một vẻ đẹp trầm mặc, tĩnh lặng:

Nhớ người đi rừng đốt lửa trong hang

Nhớ tiếng mõ rừng đêm khuya từng tiếng

Mùa đông là mùa của những cơn gió buốt giá, của những bông tuyết trắng xóa. Ở Việt Bắc, mùa đông cũng mang một vẻ đẹp trầm mặc, tĩnh lặng với những hình ảnh người đi rừng đốt lửa trong hang, tiếng mõ rừng đêm khuya từng tiếng. Hình ảnh “người đi rừng đốt lửa trong hang” gợi lên sự ấm áp, che chở của thiên nhiên đối với con người. Hình ảnh “tiếng mõ rừng đêm khuya từng tiếng” lại gợi lên sự hoang sơ, bí ẩn của núi rừng Việt Bắc.

Bốn bức tranh tứ bình Việt Bắc đã khắc họa một cách chân thực và sinh động bức tranh thiên nhiên và con người Việt Bắc trong kháng chiến. Bức tranh ấy không chỉ đẹp về hình thức mà còn đẹp về nội dung. Nó thể hiện sự gắn bó, hòa quyện giữa thiên nhiên và con người, giữa tình quân dân thắm thiết.

Bức tranh tứ bình Việt Bắc là một trong những đoạn thơ hay nhất của bài thơ Việt Bắc. Nó đã góp phần làm nên thành công của bài thơ, đồng thời thể hiện tài năng của Tố Hữu trong việc miêu tả thiên nhiên và con người.

Phân tích Việt Bắc đoạn 1

Bài thơ Việt Bắc của Tố Hữu là một trong những bài thơ kháng chiến tiêu biểu nhất của văn học Việt Nam. Bài thơ đã tái hiện một cách chân thực và sinh động bức tranh thiên nhiên và con người Việt Bắc trong kháng chiến. Trong đó, đoạn thơ đầu tiên của bài thơ là một đoạn thơ hay và ấn tượng, thể hiện được tình cảm gắn bó sâu đậm của người dân Việt Bắc và cán bộ kháng chiến.

Đoạn thơ mở đầu bằng lời hỏi của người ở lại:

Mình về mình có nhớ ta chăng

Ta về ta nhớ những hoa cùng người

Lời hỏi của người ở lại vừa là lời nhắc nhở, vừa là lời mong mỏi, thể hiện tình cảm lưu luyến, không muốn rời xa của họ. Lời thơ giản dị, mộc mạc nhưng lại chứa đựng biết bao tình cảm sâu nặng.

Tiếp theo, người ở lại đã kể lại những kỉ niệm đẹp của mình với người ra đi:

**Ta đi có nhớ những ngày

**Mình đây ta đó đắp cùng đắp

**Ta tối ta say đánh đuổi giặc

**Nhớ khi giặc đến giặc lùng

**Rừng cây núi đá ta cùng đánh Tây

Núi giăng thành lũy sắt dày

Đứng bên nhau ta cùng quyết tử cho đài vinh quang Tổ quốc

Những kỉ niệm ấy được kể lại một cách chân thực và sinh động, thể hiện tình cảm gắn bó, đồng cam cộng khổ giữa người dân Việt Bắc và cán bộ kháng chiến. Họ đã cùng nhau trải qua những ngày tháng gian khổ, thiếu thốn nhưng cũng rất đỗi hào hùng, oanh liệt.

Trong những kỉ niệm ấy, hình ảnh người dân Việt Bắc hiện lên với vẻ đẹp chân chất, mộc mạc, giàu lòng yêu nước, thương đồng bào:

Nhớ khi giặc đến giặc lùng

Rừng cây núi đá ta cùng đánh Tây

Núi giăng thành lũy sắt dày

Đứng bên nhau ta cùng quyết tử cho đài vinh quang Tổ quốc

Họ đã cùng nhau đứng lên chống lại kẻ thù xâm lược, bảo vệ quê hương, đất nước. Họ đã cùng nhau vượt qua biết bao khó khăn, gian khổ để giành thắng lợi.

Kết thúc đoạn thơ, người ở lại đã gửi lời nhắn nhủ đến người ra đi:

Nhớ khi ta cùng nhau buộc tóc

Sông Thao, sông Lô, sông Chảy mười năm kháng chiến xa nhà

Lời nhắn nhủ giản dị nhưng lại chứa đựng biết bao tình cảm sâu nặng. Nó thể hiện mong muốn của người ở lại được tiếp tục gắn bó với người ra đi.

Đoạn thơ đầu tiên của bài thơ Việt Bắc đã thể hiện được tình cảm gắn bó sâu đậm của người dân Việt Bắc và cán bộ kháng chiến. Đoạn thơ đã góp phần làm nên thành công của bài thơ, đồng thời thể hiện tài năng của Tố Hữu trong việc miêu tả tình cảm và tâm trạng con người.

Ngoài những ý chính trên, người viết có thể bổ sung thêm một số ý sau để bài văn được sâu sắc hơn:

Tố Hữu đã sử dụng ngôn ngữ thơ giản dị, mộc mạc nhưng vẫn mang đậm chất trữ tình, đậm chất ca dao dân ca.

Tố Hữu đã sử dụng nghệ thuật đối lập giữa “ta” và “người”, giữa “ngày” và “đêm”, giữa “đâu” và “ấy” để thể hiện sự gắn bó, hòa quyện giữa người dân Việt Bắc và cán bộ kháng chiến.

Tố Hữu đã sử dụng nghệ thuật liệt kê để kể lại những kỉ niệm đẹp của người dân Việt Bắc và cán bộ kháng chiến.

Tóm lại, đoạn thơ đầu tiên của bài thơ Việt Bắc là một đoạn thơ hay và ấn tượng, thể hiện được tình cảm gắn bó sâu đậm của người dân Việt Bắc và cán bộ kháng chiến.

Phân tích Việt Bắc đoạn 2

Bài thơ Việt Bắc của Tố Hữu là một trong những bài thơ kháng chiến tiêu biểu nhất của văn học Việt Nam. Bài thơ đã tái hiện một cách chân thực và sinh động bức tranh thiên nhiên và con người Việt Bắc trong kháng chiến. Trong đó, đoạn thơ thứ hai của bài thơ là một đoạn thơ hay và ấn tượng, thể hiện được tình cảm gắn bó sâu đậm của người dân Việt Bắc và cán bộ kháng chiến.

Đoạn thơ mở đầu bằng lời hỏi của người ra đi:

Ta về, mình có nhớ ta chăng

Ngày mai nhớ ai thì nhớ đến ta

Lời hỏi của người ra đi vừa là lời nhắc nhở, vừa là lời mong mỏi, thể hiện tình cảm lưu luyến, không muốn rời xa của họ. Lời thơ giản dị, mộc mạc nhưng lại chứa đựng biết bao tình cảm sâu nặng.

Tiếp theo, người ra đi đã kể lại những kỉ niệm đẹp của mình với người ở lại:

**Ta đi, ta nhớ những ngày

**Nhớ bản làng, nhớ đèo, nhớ sông, nhớ suối

**Nhớ từng bản khói cùng sương

Nhớ từng rừng nứa bờ tre ta đi

Những kỉ niệm ấy được kể lại một cách chân thực và sinh động, thể hiện tình cảm gắn bó, đồng cam cộng khổ giữa người dân Việt Bắc và cán bộ kháng chiến. Họ đã cùng nhau trải qua những ngày tháng gian khổ, thiếu thốn nhưng cũng rất đỗi hào hùng, oanh liệt.

Trong những kỉ niệm ấy, hình ảnh thiên nhiên Việt Bắc hiện lên với vẻ đẹp thơ mộng, trữ tình:

**Nhớ từng bản khói cùng sương

Nhớ từng rừng nứa bờ tre ta đi

Họ đã cùng nhau sống, chiến đấu và gắn bó với thiên nhiên Việt Bắc. Thiên nhiên Việt Bắc đã trở thành một phần máu thịt của họ.

Kết thúc đoạn thơ, người ra đi đã gửi lời nhắn nhủ đến người ở lại:

**Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung

Nhớ ai tiếng mõ rừng đêm khuya từng tiếng

Lời nhắn nhủ giản dị nhưng lại chứa đựng biết bao tình cảm sâu nặng. Nó thể hiện mong muốn của người ra đi được tiếp tục gắn bó với người ở lại.

Đoạn thơ thứ hai của bài thơ Việt Bắc đã thể hiện được tình cảm gắn bó sâu đậm của người dân Việt Bắc và cán bộ kháng chiến. Đoạn thơ đã góp phần làm nên thành công của bài thơ, đồng thời thể hiện tài năng của Tố Hữu trong việc miêu tả tình cảm và tâm trạng con người.

Ngoài những ý chính trên, người viết có thể bổ sung thêm một số ý sau để bài văn được sâu sắc hơn:

Tố Hữu đã sử dụng ngôn ngữ thơ giản dị, mộc mạc nhưng vẫn mang đậm chất trữ tình, đậm chất ca dao dân ca.

Tố Hữu đã sử dụng nghệ thuật liệt kê để kể lại những kỉ niệm đẹp của người dân Việt Bắc và cán bộ kháng chiến.

Tố Hữu đã sử dụng nghệ thuật đối lập giữa “ta” và “người”, giữa “ngày” và “đêm”, giữa “đâu” và “ấy” để thể hiện sự gắn bó, hòa quyện giữa người dân Việt Bắc và cán bộ kháng chiến.

Tóm lại, đoạn thơ thứ hai của bài thơ Việt Bắc là một đoạn thơ hay và ấn tượng, thể hiện được tình cảm gắn bó sâu đậm của người dân Việt Bắc và cán bộ kháng chiến.

Phân tích 12 câu tiếp bài Việt Bắc

Bài thơ Việt Bắc của Tố Hữu là một trong những thi phẩm xuất sắc nhất của nền thơ ca cách mạng Việt Nam. Bài thơ được viết theo thể lục bát, gồm 150 câu, được chia làm 10 đoạn, tái hiện lại những kỉ niệm đẹp đẽ, sâu sắc của quân và dân Việt Bắc trong những năm kháng chiến chống Pháp.

12 câu tiếp theo của bài thơ Việt Bắc là những câu thơ đầy xúc động, thể hiện tình cảm gắn bó, thủy chung của quân và dân Việt Bắc.

Mở đầu đoạn thơ, nhà thơ Tố Hữu nhắc lại câu hỏi của người dân Việt Bắc trong 12 câu thơ đầu:

“Mình về mình có nhớ ta

Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng”

Câu hỏi vừa là lời hỏi thăm, vừa là lời nhắc nhở, gợi nhớ những kỉ niệm đẹp đẽ của một thời gian khó. Câu thơ giản dị, mộc mạc nhưng chứa đựng biết bao tình cảm sâu nặng.

Trong 12 câu thơ tiếp theo, nhà thơ Tố Hữu đã tái hiện lại những kỉ niệm đẹp đẽ, sâu sắc của quân và dân Việt Bắc trong những năm kháng chiến chống Pháp. Đó là những kỉ niệm về thiên nhiên Việt Bắc, về đời sống sinh hoạt và chiến đấu của quân và dân nơi đây.

Trước hết, nhà thơ Tố Hữu nhắc lại những kỉ niệm về thiên nhiên Việt Bắc:

“Ta về, ta nhớ những hoa cùng người

Nhớ bản làng chòm núi đậm đà

Sương giăng mờ mịt sớm chiều

Quê hương cách mạng dựng nên từ đây”

Thiên nhiên Việt Bắc hiện lên trong thơ Tố Hữu vô cùng tươi đẹp, thơ mộng. Đó là những bản làng, chòm núi đậm đà bản sắc dân tộc. Đó là những sương giăng mờ mịt sớm chiều, tạo nên vẻ đẹp huyền ảo, trữ tình cho núi rừng Việt Bắc. Thiên nhiên Việt Bắc đã gắn bó máu thịt với cuộc kháng chiến của quân và dân nơi đây. Nó là quê hương cách mạng, là nơi nuôi dưỡng, che chở cho quân và dân ta trong những năm tháng gian khổ, ác liệt.

Không chỉ nhớ về thiên nhiên Việt Bắc, nhà thơ Tố Hữu còn nhớ về đời sống sinh hoạt và chiến đấu của quân và dân nơi đây:

“Nhớ khi giặc đến giặc lùng

Nhớ khi ta cùng nhau buộc tóc

Súng bên súng, đầu sát bên đầu

Đi bên nhau như biển với trời”

Trong những năm tháng kháng chiến chống Pháp, quân và dân Việt Bắc đã cùng nhau chia sẻ mọi gian khổ, thiếu thốn. Họ cùng nhau chiến đấu, cùng nhau hy sinh, cùng nhau giành lấy thắng lợi. Hình ảnh “súng bên súng, đầu sát bên đầu” là biểu tượng cho tình đoàn kết, gắn bó keo sơn của quân và dân Việt Bắc.

Tiếp theo, nhà thơ Tố Hữu nhắc lại những kỉ niệm về những ngày tháng kháng chiến gian khổ, ác liệt:

“Thương nhau tay nắm lấy bàn tay

Đêm tối nhớ nhau kể chuyện bên bếp

Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi

Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng”

Trong những ngày tháng kháng chiến gian khổ, ác liệt, tình quân dân Việt Bắc càng trở nên thắm thiết, sâu nặng. Họ cùng nhau vượt qua mọi khó khăn, thử thách, cùng nhau chiến đấu, cùng nhau giành lấy thắng lợi. Hình ảnh “tay nắm lấy bàn tay” là biểu tượng cho tình cảm gắn bó, yêu thương của quân và dân Việt Bắc.

Cuối cùng, nhà thơ Tố Hữu nhắc lại những kỉ niệm về những ngày tháng chiến thắng:

“Nhớ khi giặc đuổi ta về rừng

Rừng che ta, rừng vây ta tứ phía

Trăng lên đầu núi, nắng chiều lưng nương

Nhớ từng ao cá, từng nhà gianh

Chrysanthemums đỏ thắm bên ao

Ngói hồng mái ngói phủ đầy hoa”

Trong những ngày tháng chiến thắng, niềm vui chiến thắng đã xua tan đi mọi khó khăn, gian khổ. Quân và dân Việt Bắc cùng nhau vui mừng, phấn khởi. Hình ảnh “ngói hồng mái ngói phủ đầy hoa” là biểu tượng cho niềm vui chiến thắng, cho tương lai tươi sáng của dân tộc Việt Nam.

12 câu thơ tiếp theo của bài thơ Việt Bắc đã thể hiện một cách sâu sắc tình cảm gắn bó, thủy chung của quân và dân Việt Bắc. Đó là một tình cảm cao đẹp, thiêng liêng

Phân tích Việt Bắc nhớ gì như nhớ người yêu

Bài thơ Việt Bắc của Tố Hữu là một trong những thi phẩm xuất sắc nhất của nền thơ ca cách mạng Việt Nam. Bài thơ được viết theo thể lục bát, gồm 150 câu, được chia làm 10 đoạn, tái hiện lại những kỉ niệm đẹp đẽ, sâu sắc của quân và dân Việt Bắc trong những năm kháng chiến chống Pháp.

Đoạn thơ “Nhớ gì như nhớ người yêu” là đoạn thơ thể hiện sâu sắc nhất tình cảm gắn bó, thủy chung của quân và dân Việt Bắc.

Mở đầu đoạn thơ, nhà thơ Tố Hữu đã sử dụng một so sánh táo bạo, độc đáo:

“Nhớ gì như nhớ người yêu

Trăng lên đầu núi, nắng chiều lưng nương”

So sánh tình cảm của quân và dân Việt Bắc với tình cảm của đôi lứa yêu nhau là một so sánh rất mới mẻ và táo bạo. Nhưng so sánh này lại rất chính xác và phù hợp. Tình cảm của quân và dân Việt Bắc cũng giống như tình cảm của đôi lứa yêu nhau, đó là một tình cảm thiêng liêng, cao đẹp, gắn bó sâu nặng và không thể phai mờ.

Tình cảm của quân và dân Việt Bắc được thể hiện qua những kỉ niệm đẹp đẽ, sâu sắc trong những năm kháng chiến chống Pháp. Đó là những kỉ niệm về thiên nhiên Việt Bắc, về đời sống sinh hoạt và chiến đấu của quân và dân nơi đây.

Trước hết, nhà thơ Tố Hữu nhắc lại những kỉ niệm về thiên nhiên Việt Bắc:

“Nhớ từng rừng núi, bờ tre

Ngòi Thia, sông Đáy, suối Lê vơi đầy”

Thiên nhiên Việt Bắc hiện lên trong thơ Tố Hữu vô cùng tươi đẹp, thơ mộng. Đó là những rừng núi, bờ tre bạt ngàn. Đó là những con sông, con suối thơ mộng, hiền hòa. Thiên nhiên Việt Bắc đã gắn bó máu thịt với cuộc kháng chiến của quân và dân nơi đây. Nó là quê hương cách mạng, là nơi nuôi dưỡng, che chở cho quân và dân ta trong những năm tháng gian khổ, ác liệt.

Không chỉ nhớ về thiên nhiên Việt Bắc, nhà thơ Tố Hữu còn nhớ về đời sống sinh hoạt và chiến đấu của quân và dân nơi đây:

“Nhớ người đi lên rừng, lên núi

Nhớ cô em gái hái măng một mình

Nhớ người vợ trẻ địu con lên rẫy

Nhớ canh rau muống luộc chấm cà dầm tương”

Trong những năm tháng kháng chiến chống Pháp, quân và dân Việt Bắc đã cùng nhau chia sẻ mọi gian khổ, thiếu thốn. Họ cùng nhau chiến đấu, cùng nhau hy sinh, cùng nhau giành lấy thắng lợi. Hình ảnh những con người lao động cần cù, chịu thương chịu khó của Việt Bắc đã để lại trong lòng nhà thơ những kỉ niệm đẹp đẽ, sâu sắc.

Tình cảm của quân và dân Việt Bắc còn được thể hiện qua những kỉ niệm về những ngày tháng chiến đấu gian khổ, ác liệt:

“Nhớ khi giặc đuổi ta về rừng

Rừng che ta, rừng vây ta tứ phía

Trăng lên đầu núi, nắng chiều lưng nương

Nhớ tiếng mõ rừng chiều, vừng sao đêm

Nhớ tiếng gọi bạn bên song suối

Tiếng ai tha thiết bên cồn Đuống”

Trong những ngày tháng kháng chiến gian khổ, ác liệt, tình quân dân Việt Bắc càng trở nên thắm thiết, sâu nặng. Họ cùng nhau vượt qua mọi khó khăn, thử thách, cùng nhau chiến đấu, cùng nhau giành lấy thắng lợi.

Cuối cùng, nhà thơ Tố Hữu nhắc lại những kỉ niệm về những ngày tháng chiến thắng:

“Nhớ khi ta cùng nhau buộc tóc

Súng bên súng, đầu sát bên đầu

Đi bên nhau như biển với trời

Súng gươm ta trao lại cho con cháu

Nhưng lòng ta vẫn ở cùng các bạn”

Trong những ngày tháng chiến thắng, niềm vui chiến thắng đã xua tan đi mọi khó khăn, gian khổ. Quân và dân Việt Bắc cùng nhau vui mừng, phấn khởi. Họ cùng nhau xây dựng quê hương, đất nước ngày càng tươi đẹp hơn.

Đoạn thơ “Nhớ gì như nhớ người yêu” đã thể hiện một cách sâu sắc tình cảm gắn bó, thủy chung của quân và dân Việt Bắc. Đó là một tình cảm cao đẹp, thiêng liêng, được thử thách qua năm tháng, chiến tranh và gian khổ.

Phân tích khổ 3 Việt Bắc

Bài thơ Việt Bắc của Tố Hữu là một trong những thi phẩm xuất sắc nhất của nền thơ ca cách mạng Việt Nam. Bài thơ được viết theo thể lục bát, gồm 150 câu, được chia làm 10 đoạn, tái hiện lại những kỉ niệm đẹp đẽ, sâu sắc của quân và dân Việt Bắc trong những năm kháng chiến chống Pháp.

Khổ 3 của bài thơ là những lời của người ở lại Việt Bắc, hỏi thăm và nhắc nhở người về xuôi nhớ về những năm tháng chiến đấu gian khổ, ác liệt nhưng cũng đầy tình nghĩa.

Mở đầu khổ thơ, người ở lại Việt Bắc cất lên lời hỏi thăm:

“Mình đi, mình có nhớ ta

Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng”

Câu hỏi vừa là lời hỏi thăm, vừa là lời nhắc nhở, gợi nhớ những kỉ niệm đẹp đẽ của một thời gian khó. Câu thơ giản dị, mộc mạc nhưng chứa đựng biết bao tình cảm sâu nặng.

Trong khổ thơ, nhà thơ Tố Hữu đã nhắc lại những kỉ niệm về những năm tháng kháng chiến gian khổ, ác liệt của quân và dân Việt Bắc:

“Mình về mình có nhớ ta

Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn

Nhớ khi giặc đến giặc lùng

Nhớ khi ta cùng nhau buộc tóc

Súng bên súng, đầu sát bên đầu

Đi bên nhau như biển với trời”

Trong những năm tháng kháng chiến chống Pháp, quân và dân Việt Bắc đã cùng nhau chia sẻ mọi gian khổ, thiếu thốn. Họ cùng nhau chiến đấu, cùng nhau hy sinh, cùng nhau giành lấy thắng lợi. Hình ảnh “súng bên súng, đầu sát bên đầu” là biểu tượng cho tình đoàn kết, gắn bó keo sơn của quân và dân Việt Bắc.

Không chỉ nhớ những kỉ niệm về những năm tháng kháng chiến gian khổ, ác liệt, người ở lại Việt Bắc còn nhớ về những kỉ niệm về những ngày tháng chiến thắng:

“Nhớ khi giặc đuổi ta về rừng

Rừng che ta, rừng vây ta tứ phía

Trăng lên đầu núi, nắng chiều lưng nương

Nhớ từng bản làng, chòm núi đậm đà

Sương giăng mờ mịt sớm chiều

Quê hương cách mạng dựng nên từ đây”

Trong những ngày tháng chiến thắng, niềm vui chiến thắng đã xua tan đi mọi khó khăn, gian khổ. Quân và dân Việt Bắc cùng nhau vui mừng, phấn khởi. Họ cùng nhau xây dựng quê hương, đất nước ngày càng tươi đẹp hơn.

Khổ 3 của bài thơ Việt Bắc đã thể hiện một cách sâu sắc tình cảm gắn bó, thủy chung của quân và dân Việt Bắc. Đó là một tình cảm cao đẹp, thiêng liêng, được thử thách qua năm tháng, chiến tranh và gian khổ.

Để thể hiện tình cảm ấy, nhà thơ Tố Hữu đã sử dụng nhiều biện pháp nghệ thuật đặc sắc, như:

So sánh: “Nhớ khi giặc đuổi ta về rừng/ Rừng che ta, rừng vây ta tứ phía”

Điệp từ: “nhớ”

Liệt kê: “Nhớ từng bản làng, chòm núi đậm đà/ Sương giăng mờ mịt sớm chiều/ Quê hương cách mạng dựng nên từ đây”

Khổ thơ đã góp phần làm nên thành công của bài thơ Việt Bắc, thể hiện một cách chân thực, sinh động tình cảm gắn bó, thủy chung của quân và dân Việt Bắc.

Phân tích khổ 5 Việt Bắc

Bài thơ Việt Bắc của Tố Hữu là một trong những thi phẩm hay nhất viết về tình nghĩa cách mạng, tình cảm quân dân thắm thiết. Khổ thơ thứ 5 của bài thơ là một trong những khổ thơ đặc sắc nhất, thể hiện nỗi nhớ của người cán bộ về xuôi với cảnh vật và con người Việt Bắc.

Khổ thơ mở đầu bằng hai câu hỏi tu từ:

Mình về mình có nhớ ta

Nhớ đèo Ngang, nhớ Phủ Thông, nhớ đèo Giàng?

Hình thức câu hỏi tu từ nhưng thực chất là lời khẳng định nỗi nhớ của người cán bộ về xuôi với cảnh vật và con người Việt Bắc. Hai địa danh được nhắc đến trong câu hỏi là những địa danh gắn liền với cuộc kháng chiến chống Pháp của quân và dân Việt Bắc. Đèo Ngang, Phủ Thông, đèo Giàng là những nơi chiến trường ác liệt, nơi quân và dân ta đã phải trải qua biết bao gian khổ, hy sinh.

Hai câu thơ tiếp theo là những hình ảnh cụ thể, sinh động về cảnh vật Việt Bắc:

Nhớ sông Lô, nhớ phố Vị Xuyên

Nhớ câu hát sông Lô, nhớ phố phường Cao Bằng

Sông Lô, phố Vị Xuyên, câu hát sông Lô, phố phường Cao Bằng là những hình ảnh gợi nhớ về những địa danh, những kỷ niệm đẹp của người cán bộ trong thời gian ở Việt Bắc. Sông Lô là con sông thơ mộng, gắn liền với chiến thắng sông Lô oanh liệt. Phố Vị Xuyên là nơi có những phố phường đông đúc, nhộn nhịp. Câu hát sông Lô, phố phường Cao Bằng là những điệu hát, những lời ca mang đậm âm hưởng dân tộc, là tiếng lòng của người dân Việt Bắc.

Hai câu thơ cuối là những âm thanh quen thuộc của núi rừng Việt Bắc:

Nhớ tiếng mõ rừng chiều sương

Nhớ tiếng chày đêm nện cối đều đều suối xa

Tiếng mõ rừng chiều sương, tiếng chày đêm nện cối là những âm thanh quen thuộc của núi rừng Việt Bắc, là tiếng gọi của quê hương, của tình nghĩa quân dân. Âm thanh ấy ngân vang trong tâm hồn người cán bộ, khiến cho nỗi nhớ thêm da diết, khắc khoải.

Khổ thơ thứ 5 của bài thơ Việt Bắc đã thể hiện nỗi nhớ của người cán bộ về xuôi với cảnh vật và con người Việt Bắc. Nỗi nhớ ấy được thể hiện qua những hình ảnh cụ thể, sinh động, qua những âm thanh quen thuộc của núi rừng. Khổ thơ đã góp phần làm nên thành công của bài thơ, thể hiện tình nghĩa cách mạng, tình cảm quân dân thắm thiết.

Nghệ thuật của khổ thơ được thể hiện qua việc sử dụng thể thơ lục bát truyền thống, ngôn ngữ giản dị, mộc mạc, giàu hình ảnh, âm thanh. Đặc biệt, việc sử dụng các biện pháp tu từ như câu hỏi tu từ, điệp từ,… đã góp phần làm cho nỗi nhớ của người cán bộ thêm da diết, khắc khoải.

Phân tích Việt Bắc khổ 6

Khổ thơ thứ 6 của bài thơ Việt Bắc của Tố Hữu là một trong những khổ thơ đặc sắc nhất của bài thơ, thể hiện nỗi nhớ của người cán bộ về xuôi với cảnh vật và con người Việt Bắc.

Khổ thơ mở đầu bằng hai câu thơ:

Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi

Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng

Hai câu thơ mở ra một bức tranh thiên nhiên Việt Bắc tươi đẹp, tràn đầy sức sống. Màu đỏ tươi của hoa chuối nổi bật trên nền xanh bạt ngàn của rừng núi, như điểm tô thêm cho bức tranh thiên nhiên thêm phần rực rỡ. Dáng người của người cán bộ hiện lên kiên cường, vững vàng trong nắng chiều, như một biểu tượng của sức mạnh và ý chí của con người Việt Nam.

Hai câu thơ tiếp theo là những hình ảnh sinh động về con người Việt Bắc:

Ngày xuân mơ nở trắng rừng

Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang

Mùa xuân ở Việt Bắc là mùa của hoa mơ nở trắng rừng. Hoa mơ là loài hoa trắng tinh khôi, dịu dàng, mang đến cho thiên nhiên Việt Bắc một vẻ đẹp trong trẻo, tinh khiết. Hình ảnh người phụ nữ đan nón chuốt từng sợi giang là một hình ảnh mang đậm chất Việt Nam. Người phụ nữ Việt Nam cần cù, chịu khó, luôn tỉ mỉ trong từng công việc của mình.

Hai câu thơ cuối là những âm thanh quen thuộc của núi rừng Việt Bắc:

Ve kêu rừng phách đổ vàng

Nhớ cô em gái hái măng một mình

Âm thanh của ve kêu rộn rã báo hiệu mùa hè đã về. Rừng phách đổ vàng dưới ánh nắng hè, tạo nên một khung cảnh thiên nhiên vô cùng thơ mộng. Hình ảnh cô em gái hái măng một mình là một hình ảnh gợi cảm giác cô đơn, lẻ loi. Tuy nhiên, cô gái vẫn miệt mài hái măng, thể hiện tinh thần cần cù, lao động của con người Việt Bắc.

Khổ thơ thứ 6 của bài thơ Việt Bắc đã thể hiện nỗi nhớ của người cán bộ về xuôi với cảnh vật và con người Việt Bắc. Nỗi nhớ ấy được thể hiện qua những hình ảnh cụ thể, sinh động, qua những âm thanh quen thuộc của núi rừng. Khổ thơ đã góp phần làm nên thành công của bài thơ, thể hiện tình nghĩa cách mạng, tình cảm quân dân thắm thiết.

Nghệ thuật của khổ thơ được thể hiện qua việc sử dụng thể thơ lục bát truyền thống, ngôn ngữ giản dị, mộc mạc, giàu hình ảnh, âm thanh. Đặc biệt, việc sử dụng các biện pháp tu từ như so sánh, nhân hóa, điệp từ,… đã góp phần làm cho nỗi nhớ của người cán bộ thêm da diết, khắc khoải.

Khổ thơ thứ 6 của bài thơ Việt Bắc là một trong những khổ thơ hay nhất của bài thơ. Khổ thơ đã thể hiện thành công nỗi nhớ của người cán bộ về xuôi với cảnh vật và con người Việt Bắc. Nỗi nhớ ấy là một nỗi nhớ sâu sắc, da diết, thể hiện tình nghĩa cách mạng, tình cảm quân dân thắm thiết.

Phân tích Việt Bắc ta về mình có nhớ ta

Phân tích khổ thơ thứ 5 bài thơ Việt Bắc của Tố Hữu

Bài thơ Việt Bắc của Tố Hữu là một trong những thi phẩm hay nhất viết về tình nghĩa cách mạng, tình cảm quân dân thắm thiết. Khổ thơ thứ 5 của bài thơ là một trong những khổ thơ đặc sắc nhất, thể hiện nỗi nhớ của người cán bộ về xuôi với cảnh vật và con người Việt Bắc.

Khổ thơ mở đầu bằng hai câu hỏi tu từ:

Mình về mình có nhớ ta

Nhớ đèo Ngang, nhớ Phủ Thông, nhớ đèo Giàng?

Hình thức câu hỏi tu từ nhưng thực chất là lời khẳng định nỗi nhớ của người cán bộ về xuôi với cảnh vật và con người Việt Bắc. Hai địa danh được nhắc đến trong câu hỏi là những địa danh gắn liền với cuộc kháng chiến chống Pháp của quân và dân Việt Bắc. Đèo Ngang, Phủ Thông, đèo Giàng là những nơi chiến trường ác liệt, nơi quân và dân ta đã phải trải qua biết bao gian khổ, hy sinh.

Hai câu thơ tiếp theo là những hình ảnh cụ thể, sinh động về cảnh vật Việt Bắc:

Nhớ sông Lô, nhớ phố Vị Xuyên

Nhớ câu hát sông Lô, nhớ phố phường Cao Bằng

Sông Lô, phố Vị Xuyên, câu hát sông Lô, phố phường Cao Bằng là những hình ảnh gợi nhớ về những địa danh, những kỷ niệm đẹp của người cán bộ trong thời gian ở Việt Bắc. Sông Lô là con sông thơ mộng, gắn liền với chiến thắng sông Lô oanh liệt. Phố Vị Xuyên là nơi có những phố phường đông đúc, nhộn nhịp. Câu hát sông Lô, phố phường Cao Bằng là những điệu hát, những lời ca mang đậm âm hưởng dân tộc, là tiếng lòng của người dân Việt Bắc.

Hai câu thơ cuối là những âm thanh quen thuộc của núi rừng Việt Bắc:

Nhớ tiếng mõ rừng chiều sương

Nhớ tiếng chày đêm nện cối đều đều suối xa

Tiếng mõ rừng chiều sương, tiếng chày đêm nện cối là những âm thanh quen thuộc của núi rừng Việt Bắc, là tiếng gọi của quê hương, của tình nghĩa quân dân. Âm thanh ấy ngân vang trong tâm hồn người cán bộ, khiến cho nỗi nhớ thêm da diết, khắc khoải.

Khổ thơ thứ 5 của bài thơ Việt Bắc đã thể hiện nỗi nhớ của người cán bộ về xuôi với cảnh vật và con người Việt Bắc. Nỗi nhớ ấy được thể hiện qua những hình ảnh cụ thể, sinh động, qua những âm thanh quen thuộc của núi rừng. Khổ thơ đã góp phần làm nên thành công của bài thơ, thể hiện tình nghĩa cách mạng, tình cảm quân dân thắm thiết.

Nghệ thuật của khổ thơ được thể hiện qua việc sử dụng thể thơ lục bát truyền thống, ngôn ngữ giản dị, mộc mạc, giàu hình ảnh, âm thanh. Đặc biệt, việc sử dụng các biện pháp tu từ như câu hỏi tu từ, điệp từ,… đã góp phần làm cho nỗi nhớ của người cán bộ thêm da diết, khắc khoải.

Phân tích Việt Bắc ta đi ta nhớ những ngày

Việt Bắc là một trong những bài thơ tiêu biểu nhất của Tố Hữu, được viết vào năm 1954, khi Trung ương Đảng và Chính phủ rời chiến khu Việt Bắc về Hà Nội sau khi cuộc kháng chiến chống Pháp thắng lợi. Bài thơ là lời ca ngợi tình cảm gắn bó sâu nặng của quân và dân Việt Bắc trong suốt những năm tháng kháng chiến gian khổ.

Trong đoạn trích “Ta đi ta nhớ những ngày”, tác giả đã tập trung thể hiện nỗi nhớ của người ra đi đối với những ngày tháng gắn bó ở Việt Bắc. Nỗi nhớ ấy được thể hiện qua ba mảng: nỗi nhớ thiên nhiên, nỗi nhớ con người và nỗi nhớ những kỉ niệm gắn bó.

Nỗi nhớ thiên nhiên hiện lên trong tâm tưởng người ra đi với những hình ảnh quen thuộc, gần gũi:

“Ta đi ta nhớ những ngày

Mình đây ta đó, đắng cay ngọt bùi

Thương nhau chia củ sắn lùi

Bát cơm sẻ nửa,chăn sui đắp cùng”.

Từ “mình đây ta đó” chỉ vị trí gần gũi, quấn quýt của người đi và người ở lại. Cụm từ “đắng cay ngọt bùi” chỉ những gian khổ và niềm vui mà họ đã cùng trải qua. Hai câu thơ gợi nhắc những kỉ niệm về những năm tháng kháng chiến gian lao nhưng cũng vô cùng ấm áp, nghĩa tình. Trong những ngày tháng ấy, họ cùng nhau chia sẻ những củ sắn lùi, bát cơm sẻ nửa, chăn sui đắp cùng. Đó là những gì bình dị, đơn sơ nhất nhưng lại chứa đựng biết bao tình yêu thương, gắn bó.

Nỗi nhớ con người hiện lên trong tâm tưởng người ra đi với những hình ảnh chân thực, sinh động:

“Nhớ người mẹ nắng cháy lưng

Địu con lên rẫy bẻ từng bắp ngô

Nhớ sao lớp học i tờ

Đồng khuya đuốc sáng những giờ liên hoan

Nhớ sao ngày tháng cơ quan

Gian nan đời vẫn ca vang núi đèo

Nhớ sao tiếng mõ rừng chiều

Chày đêm nện cối đều đều suối xa”.

Hình ảnh “người mẹ nắng cháy lưng” là một hình ảnh đẹp, gợi lên sự tần tảo, chịu thương chịu khó của người phụ nữ Việt Bắc. Hình ảnh “địu con lên rẫy bẻ từng bắp ngô” là một hình ảnh quen thuộc, gần gũi với cuộc sống của đồng bào dân tộc miền núi. Hình ảnh ấy gợi lên sự lam lũ, vất vả nhưng cũng rất yêu thương, gắn bó của người mẹ đối với con cái.

Nỗi nhớ con người còn được thể hiện qua hình ảnh “lớp học i tờ”, “ngày tháng cơ quan”. Những hình ảnh ấy gợi lên sự ấm áp, tin tưởng của người dân Việt Bắc đối với cách mạng, đối với Đảng và Bác Hồ.

Nỗi nhớ những kỉ niệm gắn bó được thể hiện qua những hình ảnh, âm thanh quen thuộc:

“Nhớ sao tiếng mõ rừng chiều

Chày đêm nện cối đều đều suối xa”.

Tiếng mõ rừng chiều là âm thanh quen thuộc của cuộc sống ở Việt Bắc. Tiếng mõ ấy gợi lên sự bình yên, yên ả của núi rừng. Tiếng chày đêm nện cối là âm thanh của cuộc sống lao động, sản xuất. Tiếng chày ấy gợi lên sự ấm no, hạnh phúc của con người. Tiếng suối xa là âm thanh của thiên nhiên, gợi lên sự thanh bình, thơ mộng của núi rừng Việt Bắc.

Những hình ảnh, âm thanh ấy đã gợi nhắc những kỉ niệm gắn bó của người ra đi với Việt Bắc. Đó là những kỉ niệm đẹp đẽ, thiêng liêng, không thể nào quên.

Nỗi nhớ của người ra đi đối với Việt Bắc được thể hiện qua giọng thơ tha thiết, sâu lắng. Thể thơ lục bát được sử dụng nhuần nhuyễn, uyển chuyển, phù hợp với nội dung biểu đạt. Nghệ thuật điệp từ, điệp cấu trúc được sử dụng hiệu quả, góp phần nhấn mạnh nỗi nhớ da diết của người ra đi.

Đoạn trích “Ta đi ta nhớ những ngày” là một đoạn thơ hay, thể hiện được nỗi nhớ sâu nặng của người ra đi đối với Việt Bắc. Nỗi nhớ ấy không chỉ là nỗi nhớ của cá nhân mà còn là nỗi nhớ của cả dân tộc đối với một thời kì lịch sử hào hùng, oanh liệt.

Phân tích những đường Việt Bắc của ta

Đoạn trích “Những đường Việt Bắc của ta” nằm ở phần đầu của bài thơ “Việt Bắc” của Tố Hữu, được viết vào năm 1954, khi Trung ương Đảng và Chính phủ rời chiến khu Việt Bắc về Hà Nội sau khi cuộc kháng chiến chống Pháp thắng lợi. Đoạn trích đã tái hiện bức tranh hào hùng của cuộc kháng chiến chống Pháp của quân và dân ta trên chiến khu Việt Bắc.

Mở đầu đoạn trích, tác giả đã vẽ ra một bức tranh hoành tráng, rộng lớn về những con đường hành quân của bộ đội và dân công trong những đêm đêm:

“Những đường Việt Bắc của ta Đêm đêm rầm rập như là đất nung Quân đi điệp điệp trùng trùng Ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan”.

Câu thơ mở đầu với hình ảnh “những đường Việt Bắc của ta” đã gợi lên một không gian rộng lớn, hùng vĩ, là nơi diễn ra những cuộc hành quân hào hùng của quân và dân ta. Điệp từ “đêm đêm” nhấn mạnh nhịp điệu sôi động, khẩn trương của cuộc hành quân. So sánh “như là đất nung” đã gợi lên khí thế hào hùng, mạnh mẽ của quân và dân ta. Hình ảnh “quân đi điệp điệp trùng trùng” gợi lên một đội quân đông đảo, hùng hậu, tiến về phía trước như một làn sóng mạnh mẽ. Hình ảnh “ánh sao đầu súng” là một hình ảnh đẹp, mang ý nghĩa tượng trưng sâu sắc. Ánh sao là biểu tượng của lí tưởng cách mạng, là ánh sáng soi đường cho quân và dân ta. Câu thơ đã thể hiện niềm tin tưởng, lạc quan của quân và dân ta vào tương lai tươi sáng của cách mạng.

Tiếp theo, tác giả đã tập trung khắc họa hình ảnh đoàn quân và dân công trong cuộc hành quân:

“Dân công đỏ đuốc từng đoàn Dừng chân bên đường hát vang bài ca”.

Hình ảnh “dân công đỏ đuốc từng đoàn” gợi lên sự đông đảo, sôi nổi của đoàn dân công. Hình ảnh “dừng chân bên đường hát vang bài ca” đã thể hiện tinh thần lạc quan, yêu đời của dân công. Họ hát vang những bài ca cách mạng, những bài ca ca ngợi quê hương, đất nước, ca ngợi Đảng, Bác Hồ. Bài ca ấy đã tiếp thêm sức mạnh, động viên tinh thần cho cả đoàn quân và dân công.

Cuối cùng, tác giả đã thể hiện niềm vui chiến thắng của quân và dân ta:

“Cờ đỏ sao vàng thắm tươi Dựng lên trên lầu cao Việt Bắc”.

Hình ảnh “cờ đỏ sao vàng thắm tươi” là biểu tượng của độc lập, tự do. Hình ảnh “dựng lên trên lầu cao Việt Bắc” đã thể hiện niềm vui chiến thắng của quân và dân ta. Họ đã giành được độc lập, tự do cho dân tộc, cho đất nước.

Đoạn trích “Những đường Việt Bắc của ta” đã tái hiện bức tranh hào hùng của cuộc kháng chiến chống Pháp của quân và dân ta trên chiến khu Việt Bắc. Đoạn trích đã thể hiện niềm tin tưởng, lạc quan của quân và dân ta vào tương lai tươi sáng của cách mạng.

Ngoài ra, đoạn trích còn sử dụng nhiều biện pháp nghệ thuật đặc sắc như:

Điệp từ “đêm đêm”, “điệp điệp trùng trùng”, “dừng chân bên đường” được sử dụng để nhấn mạnh nhịp điệu sôi động, khẩn trương của cuộc hành quân, sự đông đảo, hùng hậu của quân và dân ta.

So sánh “như là đất nung” đã gợi lên khí thế hào hùng, mạnh mẽ của quân và dân ta.

Hình ảnh “ánh sao đầu súng” là một hình ảnh đẹp, mang ý nghĩa tượng trưng sâu sắc.

Nghệ thuật đối lập “đêm đêm” – “đông khuya”, “dừng chân bên đường” – “hát vang” đã gợi lên sự tương phản giữa không gian và thời gian, giữa hoạt động và trạng thái, thể hiện sự đối lập giữa cuộc sống chiến đấu gian khổ và niềm vui chiến thắng hào hùng.

Tóm lại, đoạn trích “Những đường Việt Bắc của ta” là một đoạn thơ hay, thể hiện được khí thế hào hùng của cuộc kháng chiến chống Pháp của quân và dân ta trên chiến khu Việt Bắc. Đoạn trích đã góp phần làm nên thành công của bài thơ “Việt Bắc”.

Phân tích 20 câu đầu Việt Bắc

Việt Bắc là một trong những bài thơ tiêu biểu nhất của Tố Hữu, được viết vào năm 1954, khi Trung ương Đảng và Chính phủ rời chiến khu Việt Bắc về Hà Nội sau khi cuộc kháng chiến chống Pháp thắng lợi. Bài thơ là lời ca ngợi tình cảm gắn bó sâu nặng của quân và dân Việt Bắc trong suốt những năm tháng kháng chiến gian khổ.

20 câu đầu của bài thơ là lời của người ra đi, thể hiện nỗi nhớ sâu nặng của họ đối với Việt Bắc. Nỗi nhớ ấy được thể hiện qua ba mảng: nỗi nhớ thiên nhiên, nỗi nhớ con người và nỗi nhớ những kỉ niệm gắn bó.

Nỗi nhớ thiên nhiên hiện lên trong tâm tưởng người ra đi với những hình ảnh quen thuộc, gần gũi:

“Ta đi ta nhớ những ngày

Mình đây ta đó, đắng cay ngọt bùi

Thương nhau chia củ sắn lùi

Bát cơm sẻ nửa,chăn sui đắp cùng”.

Từ “mình đây ta đó” chỉ vị trí gần gũi, quấn quýt của người đi và người ở lại. Cụm từ “đắng cay ngọt bùi” chỉ những gian khổ và niềm vui mà họ đã cùng trải qua. Hai câu thơ gợi nhắc những kỉ niệm về những năm tháng kháng chiến gian lao nhưng cũng vô cùng ấm áp, nghĩa tình. Trong những ngày tháng ấy, họ cùng nhau chia sẻ những củ sắn lùi, bát cơm sẻ nửa, chăn sui đắp cùng. Đó là những gì bình dị, đơn sơ nhất nhưng lại chứa đựng biết bao tình yêu thương, gắn bó.

Nỗi nhớ con người hiện lên trong tâm tưởng người ra đi với những hình ảnh chân thực, sinh động:

“Nhớ người mẹ nắng cháy lưng

Địu con lên rẫy bẻ từng bắp ngô

Nhớ sao lớp học i tờ

Đồng khuya đuốc sáng những giờ liên hoan

Nhớ sao ngày tháng cơ quan

Gian nan đời vẫn ca vang núi đèo

Nhớ sao tiếng mõ rừng chiều

Chày đêm nện cối đều đều suối xa”.

Hình ảnh “người mẹ nắng cháy lưng” là một hình ảnh đẹp, gợi lên sự tần tảo, chịu thương chịu khó của người phụ nữ Việt Bắc. Hình ảnh “địu con lên rẫy bẻ từng bắp ngô” là một hình ảnh quen thuộc, gần gũi với cuộc sống của đồng bào dân tộc miền núi. Hình ảnh ấy gợi lên sự lam lũ, vất vả nhưng cũng rất yêu thương, gắn bó của người mẹ đối với con cái.

Nỗi nhớ con người còn được thể hiện qua hình ảnh “lớp học i tờ”, “ngày tháng cơ quan”. Những hình ảnh ấy gợi lên sự ấm áp, tin tưởng của người dân Việt Bắc đối với cách mạng, đối với Đảng và Bác Hồ.

Nỗi nhớ những kỉ niệm gắn bó được thể hiện qua những hình ảnh, âm thanh quen thuộc:

“Nhớ sao tiếng mõ rừng chiều

Chày đêm nện cối đều đều suối xa”.

Tiếng mõ rừng chiều là âm thanh quen thuộc của cuộc sống ở Việt Bắc. Tiếng mõ ấy gợi lên sự bình yên, yên ả của núi rừng. Tiếng chày đêm nện cối là âm thanh của cuộc sống lao động, sản xuất. Tiếng chày ấy gợi lên sự ấm no, hạnh phúc của con người. Tiếng suối xa là âm thanh của thiên nhiên, gợi lên sự thanh bình, thơ mộng của núi rừng Việt Bắc.

Những hình ảnh, âm thanh ấy đã gợi nhắc những kỉ niệm gắn bó của người ra đi với Việt Bắc. Đó là những kỉ niệm đẹp đẽ, thiêng liêng, không thể nào quên.

Nỗi nhớ của người ra đi đối với Việt Bắc được thể hiện qua giọng thơ tha thiết, sâu lắng. Thể thơ lục bát được sử dụng nhuần nhuyễn, uyển chuyển, phù hợp với nội dung biểu đạt. Nghệ thuật điệp từ, điệp cấu trúc được sử dụng hiệu quả, góp phần nhấn mạnh nỗi nhớ da diết của người ra đi.

20 câu đầu của bài thơ Việt Bắc là một đoạn thơ hay, thể hiện được nỗi nhớ sâu nặng của người ra đi đối với Việt Bắc. Nỗi nhớ ấy không chỉ là nỗi nhớ của cá nhân mà còn là nỗi nhớ của cả dân tộc đối với một thời kì lịch sử hào hùng, oanh liệt.

Phân tích Việt Bắc nhớ khi giặc đến giặc lùng

Việt Bắc là một trong những bài thơ tiêu biểu nhất của Tố Hữu, được viết vào năm 1954, khi Trung ương Đảng và Chính phủ rời chiến khu Việt Bắc về Hà Nội sau khi cuộc kháng chiến chống Pháp thắng lợi. Bài thơ là lời ca ngợi tình cảm gắn bó sâu nặng của quân và dân Việt Bắc trong suốt những năm tháng kháng chiến gian khổ.

Đoạn thơ “Nhớ khi giặc đến giặc lùng” là một đoạn thơ hay, thể hiện rõ nét tình cảm gắn bó sâu nặng của quân và dân Việt Bắc trong những ngày kháng chiến gian khổ.

Mở đầu đoạn thơ, Tố Hữu đã tái hiện lại không khí căng thẳng, ngột ngạt của những ngày giặc Pháp đến chiếm đóng Việt Bắc:

“Nhớ khi giặc đến giặc lùng

Rừng cây núi đá ta cùng đánh Tây

Núi giăng thành lũy sắt dày

Đá che chở ta vững chắc tay cầm tay”.

Hình ảnh “giặc đến giặc lùng” đã gợi lên không khí căng thẳng, ngột ngạt của những ngày giặc Pháp đến chiếm đóng Việt Bắc. Trong hoàn cảnh ấy, quân và dân Việt Bắc đã cùng nhau đứng lên chiến đấu, kiên cường bảo vệ quê hương, đất nước. Hình ảnh “rừng cây núi đá” đã gợi lên sự hiểm trở, che chở của thiên nhiên đối với quân và dân Việt Bắc. Hình ảnh “núi giăng thành lũy sắt dày” đã gợi lên sự vững chắc của trận địa, nơi quân và dân Việt Bắc đứng lên chiến đấu. Hình ảnh “đá che chở ta vững chắc tay cầm tay” đã gợi lên sự đoàn kết, gắn bó của quân và dân Việt Bắc trong cuộc kháng chiến.

Tiếp theo, Tố Hữu đã kể lại những chiến công hào hùng của quân và dân Việt Bắc:

“Đêm đêm Mường Héo cọp trêu

Năm mươi đinh nó quèn thủa nào

Núi giăng dày thép gai đâm

Đất giòn đinh nhọn xé tim gan”.

Hình ảnh “Mường Héo cọp trêu” đã gợi lên sự hiểm trở, khó khăn của chiến trường. Hình ảnh “năm mươi đinh nó quèn thủa nào” đã gợi lên sự kiên cường, bất khuất của quân và dân Việt Bắc. Hình ảnh “núi giăng dày thép gai đâm” đã gợi lên sự hiểm nguy, ác liệt của chiến trường. Hình ảnh “đất giòn đinh nhọn xé tim gan” đã gợi lên sự đau thương, mất mát của quân và dân Việt Bắc trong cuộc kháng chiến.

Cuối cùng, Tố Hữu đã thể hiện niềm tin tưởng, lạc quan của quân và dân Việt Bắc vào tương lai tươi sáng của cách mạng:

“Rừng che bộ đội rừng vây quân thù

Mênh mông bốn mặt sương mù

Đất trời ta cả chiến khu du kích”.

Hình ảnh “rừng che bộ đội rừng vây quân thù” đã gợi lên sự che chở, bảo vệ của thiên nhiên đối với quân và dân Việt Bắc. Hình ảnh “mênh mông bốn mặt sương mù” đã gợi lên không khí bí ẩn, huyền ảo của chiến trường. Hình ảnh “đất trời ta cả chiến khu du kích” đã gợi lên sự rộng lớn, bao la của chiến trường Việt Bắc.

Đoạn thơ “Nhớ khi giặc đến giặc lùng” là một đoạn thơ hay, thể hiện rõ nét tình cảm gắn bó sâu nặng của quân và dân Việt Bắc trong những ngày kháng chiến gian khổ. Đoạn thơ đã góp phần làm nên thành công của bài thơ Việt Bắc.

Phân tích 16 câu cuối bài Việt Bắc

Việt Bắc là một trong những bài thơ tiêu biểu nhất của Tố Hữu, được viết vào năm 1954, khi Trung ương Đảng và Chính phủ rời chiến khu Việt Bắc về Hà Nội sau khi cuộc kháng chiến chống Pháp thắng lợi. Bài thơ là lời ca ngợi tình cảm gắn bó sâu nặng của quân và dân Việt Bắc trong suốt những năm tháng kháng chiến gian khổ.

16 câu cuối của bài thơ là lời của người ở lại, thể hiện niềm tin tưởng, lạc quan vào tương lai tươi sáng của cách mạng, của đất nước.

Mở đầu đoạn thơ, người ở lại đã khẳng định tình cảm gắn bó sâu nặng của mình với Việt Bắc:

“Mình về mình có nhớ ta

Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn

Nhớ con chim câu tung bay

Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung”.

Từ “mình” và “ta” được lặp lại nhiều lần trong đoạn thơ, thể hiện sự gần gũi, thân thiết giữa người đi và người ở lại. Câu thơ “Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn” đã khẳng định tình cảm gắn bó sâu nặng của người ở lại với Việt Bắc. Người ở lại không chỉ nhớ đến thiên nhiên, con người Việt Bắc mà còn nhớ đến những kỉ niệm gắn bó, tình nghĩa thủy chung.

Tiếp theo, người ở lại đã nhắc lại những kỉ niệm đẹp đẽ, nghĩa tình giữa mình và Việt Bắc:

“Nhớ khi ta cùng nhau bước tới

Trời xanh thêm thắm, rừng thêm xanh

Mình đi, mình có nhớ mình

Tân Trào, Hồng Thái, mái đình, cây đa”.

Hình ảnh “trời xanh thêm thắm, rừng thêm xanh” đã gợi lên sự tươi đẹp, trù phú của thiên nhiên Việt Bắc. Hình ảnh “mình đi, mình có nhớ mình” đã khẳng định tình cảm gắn bó sâu nặng của người ở lại với Việt Bắc. Người ở lại không chỉ nhớ đến Việt Bắc mà còn nhớ đến chính mình, nhớ đến những ngày tháng gắn bó, chiến đấu cùng Việt Bắc.

Cuối cùng, người ở lại đã thể hiện niềm tin tưởng, lạc quan vào tương lai tươi sáng của cách mạng, của đất nước:

“Nhớ sao lớp học i tờ

Đồng khuya đuốc sáng những giờ liên hoan

Nhớ sao ngày tháng cơ quan

Gian nan đời vẫn ca vang núi đèo

Nhớ sao tiếng mõ rừng chiều

Chày đêm nện cối đều đều suối xa

Nhớ sao ngày mai tiếng hát

Của người đi kẻ ở, thề chung thủy”.

Hình ảnh “lớp học i tờ” đã gợi lên sự ấm áp, tin tưởng của người ở lại vào tương lai của đất nước. Hình ảnh “đồng khuya đuốc sáng những giờ liên hoan” đã gợi lên không khí vui tươi, phấn khởi của cuộc sống mới. Hình ảnh “ngày tháng cơ quan” đã gợi lên sự gian khổ, nhưng cũng rất hào hùng của cuộc kháng chiến. Hình ảnh “tiếng mõ rừng chiều, chày đêm nện cối đều đều suối xa” đã gợi lên không khí yên bình, thanh bình của cuộc sống mới. Hình ảnh “ngày mai tiếng hát” đã khẳng định niềm tin tưởng, lạc quan vào tương lai tươi sáng của đất nước.

16 câu cuối của bài thơ là đoạn thơ hay, thể hiện được niềm tin tưởng, lạc quan của người ở lại vào tương lai tươi sáng của cách mạng, của đất nước. Đoạn thơ đã góp phần làm nên thành công của bài thơ Việt Bắc.

Phân tích Việt Bắc nâng cao

Việt Bắc là một trong những bài thơ tiêu biểu nhất của Tố Hữu, được viết vào năm 1954, khi Trung ương Đảng và Chính phủ rời chiến khu Việt Bắc về Hà Nội sau khi cuộc kháng chiến chống Pháp thắng lợi. Bài thơ là lời ca ngợi tình cảm gắn bó sâu nặng của quân và dân Việt Bắc trong suốt những năm tháng kháng chiến gian khổ.

Về mặt nội dung, bài thơ Việt Bắc có thể chia làm hai phần chính:

Phần đầu (20 câu đầu): Nỗi nhớ của người ra đi đối với Việt Bắc.

Phần sau (48 câu còn lại): Nỗi nhớ của người ở lại đối với người ra đi và niềm tin tưởng, lạc quan vào tương lai tươi sáng của cách mạng, của đất nước.

Nỗi nhớ của người ra đi đối với Việt Bắc

20 câu đầu của bài thơ là lời của người ra đi, thể hiện nỗi nhớ sâu nặng của họ đối với Việt Bắc. Nỗi nhớ ấy được thể hiện qua ba mảng: nỗi nhớ thiên nhiên, nỗi nhớ con người và nỗi nhớ những kỉ niệm gắn bó.

Nỗi nhớ thiên nhiên

Nỗi nhớ thiên nhiên hiện lên trong tâm tưởng người ra đi với những hình ảnh quen thuộc, gần gũi:

“Ta đi ta nhớ những ngày

Mình đây ta đó, đắng cay ngọt bùi

Thương nhau chia củ sắn lùi

Bát cơm sẻ nửa,chăn sui đắp cùng”.

Từ “mình đây ta đó” chỉ vị trí gần gũi, quấn quýt của người đi và người ở lại. Cụm từ “đắng cay ngọt bùi” chỉ những gian khổ và niềm vui mà họ đã cùng trải qua. Hai câu thơ gợi nhắc những kỉ niệm về những năm tháng kháng chiến gian lao nhưng cũng vô cùng ấm áp, nghĩa tình. Trong những ngày tháng ấy, họ cùng nhau chia sẻ những củ sắn lùi, bát cơm sẻ nửa, chăn sui đắp cùng. Đó là những gì bình dị, đơn sơ nhất nhưng lại chứa đựng biết bao tình yêu thương, gắn bó.

Nỗi nhớ con người

Nỗi nhớ con người hiện lên trong tâm tưởng người ra đi với những hình ảnh chân thực, sinh động:

“Nhớ người mẹ nắng cháy lưng

Địu con lên rẫy bẻ từng bắp ngô

Nhớ sao lớp học i tờ

Đồng khuya đuốc sáng những giờ liên hoan

Nhớ sao ngày tháng cơ quan

Gian nan đời vẫn ca vang núi đèo

Nhớ sao tiếng mõ rừng chiều

Chày đêm nện cối đều đều suối xa”.

Hình ảnh “người mẹ nắng cháy lưng” là một hình ảnh đẹp, gợi lên sự tần tảo, chịu thương chịu khó của người phụ nữ Việt Bắc. Hình ảnh “địu con lên rẫy bẻ từng bắp ngô” là một hình ảnh quen thuộc, gần gũi với cuộc sống của đồng bào dân tộc miền núi. Hình ảnh ấy gợi lên sự lam lũ, vất vả nhưng cũng rất yêu thương, gắn bó của người mẹ đối với con cái.

Nỗi nhớ con người còn được thể hiện qua hình ảnh “lớp học i tờ”, “ngày tháng cơ quan”. Những hình ảnh ấy gợi lên sự ấm áp, tin tưởng của người ra đi vào tương lai của đất nước.

Nỗi nhớ những kỉ niệm gắn bó

Nỗi nhớ những kỉ niệm gắn bó được thể hiện qua những hình ảnh, âm thanh quen thuộc:

“Nhớ sao tiếng mõ rừng chiều

Chày đêm nện cối đều đều suối xa”.

Tiếng mõ rừng chiều là âm thanh quen thuộc của cuộc sống ở Việt Bắc. Tiếng mõ ấy gợi lên sự bình yên, yên ả của núi rừng. Tiếng chày đêm nện cối là âm thanh của cuộc sống lao động, sản xuất. Tiếng chày ấy gợi lên sự ấm no, hạnh phúc của con người.

Nỗi nhớ của người ra đi đối với Việt Bắc được thể hiện qua giọng thơ tha thiết, sâu lắng. Thể thơ lục bát được sử dụng nhuần nhuyễn, uyển chuyển, phù hợp với nội dung biểu đạt. Nghệ thuật điệp từ, điệp cấu trúc được sử dụng hiệu quả, góp phần nhấn mạnh nỗi nhớ da diết của người ra đi.

**Nỗi nhớ của người ở lại đối với người ra đi và niềm tin tưởng, lạc quan vào tương lai tươi sáng của cách mạng, của đất nước.

Phân tích bài thơ cảnh rừng Việt Bắc

Cảnh rừng Việt Bắc là một trong những bài thơ tiêu biểu của Tố Hữu, được viết vào năm 1949, khi Trung ương Đảng và Chính phủ rời chiến khu Việt Bắc về Hà Nội sau khi cuộc kháng chiến chống Pháp thắng lợi. Bài thơ là lời ca ngợi vẻ đẹp thiên nhiên hùng vĩ, thơ mộng của núi rừng Việt Bắc.

Bài thơ được chia làm hai phần chính:

Phần đầu (4 câu đầu): Miêu tả vẻ đẹp chung của núi rừng Việt Bắc

Phần sau (12 câu còn lại): Miêu tả vẻ đẹp của từng cảnh vật cụ thể trong núi rừng Việt Bắc

Miêu tả vẻ đẹp chung của núi rừng Việt Bắc

Mở đầu bài thơ, Tố Hữu đã miêu tả vẻ đẹp chung của núi rừng Việt Bắc bằng những hình ảnh giàu sức gợi:

“Cảnh rừng Việt Bắc

Mình về mình có nhớ ta

Nhớ không rừng xanh hoa chuối đỏ

Nhớ không cao xanh ta nhớ từng con đèo”.

Hình ảnh “rừng xanh hoa chuối đỏ” là một hình ảnh rất đặc trưng của núi rừng Việt Bắc. Màu xanh của rừng hòa quyện với màu đỏ của hoa chuối tạo nên một bức tranh thiên nhiên tươi đẹp, tràn đầy sức sống. Hình ảnh “cao xanh ta nhớ từng con đèo” gợi lên sự hùng vĩ, tráng lệ của núi rừng Việt Bắc. Những con đèo trập trùng nối tiếp nhau như những bức tường thành vững chắc, bảo vệ cho núi rừng Việt Bắc.

Miêu tả vẻ đẹp của từng cảnh vật cụ thể trong núi rừng Việt Bắc

Ở phần sau của bài thơ, Tố Hữu đã miêu tả vẻ đẹp của từng cảnh vật cụ thể trong núi rừng Việt Bắc.

Vẻ đẹp của cây cối:

“Nhớ sông Lô, nhớ phố Vị Xuyên

Nhớ đồng Văn, nhớ Tuyên Quang

Nhớ sông Đà, nhớ đỉnh Pha Luông

Nhớ sông gầm, nhớ cọp trêu”.

Tố Hữu đã nhắc đến những địa danh nổi tiếng của núi rừng Việt Bắc, nơi có những cây cối xanh tốt, tươi non. Hình ảnh “sông Lô, phố Vị Xuyên, đồng Văn, Tuyên Quang, sông Đà, đỉnh Pha Luông, sông gầm, cọp trêu” gợi lên vẻ đẹp hùng vĩ, hoang sơ của núi rừng Việt Bắc.

Vẻ đẹp của hoa lá:

“Nhớ bản làng nhớ suối rừng

Nhớ từng ao cá, từng hang người

Nhớ tiếng chày đêm nện cối đều

Nhớ ngày giăng mắc võng mành mưa”.

Tố Hữu đã nhắc đến những âm thanh, hình ảnh quen thuộc của núi rừng Việt Bắc, nơi có những hoa lá rực rỡ sắc màu. Hình ảnh “bản làng, suối rừng, ao cá, hang người, tiếng chày đêm, nện cối đều, ngày giăng mắc võng mành mưa” gợi lên vẻ đẹp thơ mộng, yên bình của núi rừng Việt Bắc.

Vẻ đẹp của con người:

“Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung

Nhớ người mẹ nắng cháy lưng

Địu con lên rẫy bẻ từng bắp ngô

Nhớ sao lớp học i tờ

Đồng khuya đuốc sáng những giờ liên hoan”.

Tố Hữu đã nhắc đến những con người anh hùng, kiên cường của núi rừng Việt Bắc. Hình ảnh “tiếng hát ân tình thủy chung, người mẹ nắng cháy lưng, bẻ từng bắp ngô, lớp học i tờ, đồng khuya đuốc sáng những giờ liên hoan” gợi lên vẻ đẹp nghĩa tình, thủy chung của con người Việt Bắc.

Bài thơ Cảnh rừng Việt Bắc đã thể hiện được tình yêu tha thiết của Tố Hữu đối với thiên nhiên và con người Việt Bắc. Bài thơ cũng là một bức tranh thiên nhiên tuyệt đẹp, hùng vĩ, thơ mộng của núi rừng Việt Bắc.

Phân tích 8 câu đầu Việt Bắc học sinh giỏi

Việt Bắc là một trong những bài thơ tiêu biểu nhất của Tố Hữu, được viết vào năm 1954, khi Trung ương Đảng và Chính phủ rời chiến khu Việt Bắc về Hà Nội sau khi cuộc kháng chiến chống Pháp thắng lợi. Bài thơ là lời ca ngợi tình cảm gắn bó sâu nặng của quân và dân Việt Bắc trong suốt những năm tháng kháng chiến gian khổ.

8 câu đầu của bài thơ là lời của người ra đi, thể hiện nỗi nhớ sâu nặng của họ đối với Việt Bắc. Nỗi nhớ ấy được thể hiện qua ba mảng: nỗi nhớ thiên nhiên, nỗi nhớ con người và nỗi nhớ những kỉ niệm gắn bó.

Nỗi nhớ thiên nhiên hiện lên trong tâm tưởng người ra đi với những hình ảnh quen thuộc, gần gũi:

“Ta đi ta nhớ những ngày

Mình đây ta đó, đắng cay ngọt bùi

Thương nhau chia củ sắn lùi

Bát cơm sẻ nửa,chăn sui đắp cùng”.

Từ “mình đây ta đó” chỉ vị trí gần gũi, quấn quýt của người đi và người ở lại. Cụm từ “đắng cay ngọt bùi” chỉ những gian khổ và niềm vui mà họ đã cùng trải qua. Hai câu thơ gợi nhắc những kỉ niệm về những năm tháng kháng chiến gian lao nhưng cũng vô cùng ấm áp, nghĩa tình. Trong những ngày tháng ấy, họ cùng nhau chia sẻ những củ sắn lùi, bát cơm sẻ nửa, chăn sui đắp cùng. Đó là những gì bình dị, đơn sơ nhất nhưng lại chứa đựng biết bao tình yêu thương, gắn bó.

Nỗi nhớ con người hiện lên trong tâm tưởng người ra đi với những hình ảnh chân thực, sinh động:

“Nhớ người mẹ nắng cháy lưng

Địu con lên rẫy bẻ từng bắp ngô

Nhớ sao lớp học i tờ

Đồng khuya đuốc sáng những giờ liên hoan

Nhớ sao ngày tháng cơ quan

Gian nan đời vẫn ca vang núi đèo

Nhớ sao tiếng mõ rừng chiều

Chày đêm nện cối đều đều suối xa”.

Hình ảnh “người mẹ nắng cháy lưng” là một hình ảnh đẹp, gợi lên sự tần tảo, chịu thương chịu khó của người phụ nữ Việt Bắc. Hình ảnh “địu con lên rẫy bẻ từng bắp ngô” là một hình ảnh quen thuộc, gần gũi với cuộc sống của đồng bào dân tộc miền núi. Hình ảnh ấy gợi lên sự lam lũ, vất vả nhưng cũng rất yêu thương, gắn bó của người mẹ đối với con cái.

Nỗi nhớ con người còn được thể hiện qua hình ảnh “lớp học i tờ”, “ngày tháng cơ quan”. Những hình ảnh ấy gợi lên sự ấm áp, tin tưởng của người ra đi vào tương lai của đất nước.

Nỗi nhớ những kỉ niệm gắn bó được thể hiện qua những hình ảnh, âm thanh quen thuộc:

“Nhớ sao tiếng mõ rừng chiều

Chày đêm nện cối đều đều suối xa”.

Tiếng mõ rừng chiều là âm thanh quen thuộc của cuộc sống ở Việt Bắc. Tiếng mõ ấy gợi lên sự bình yên, yên ả của núi rừng. Tiếng chày đêm nện cối là âm thanh của cuộc sống lao động, sản xuất. Tiếng chày ấy gợi lên sự ấm no, hạnh phúc của con người.

Nỗi nhớ của người ra đi đối với Việt Bắc được thể hiện qua giọng thơ tha thiết, sâu lắng. Thể thơ lục bát được sử dụng nhuần nhuyễn, uyển chuyển, phù hợp với nội dung biểu đạt. Nghệ thuật điệp từ, điệp cấu trúc được sử dụng hiệu quả, góp phần nhấn mạnh nỗi nhớ da diết của người ra đi.

Nhìn chung, 8 câu đầu của bài thơ Việt Bắc đã thể hiện thành công nỗi nhớ sâu nặng của người ra đi đối với Việt Bắc. Nỗi nhớ ấy được thể hiện qua ba mảng: nỗi nhớ thiên nhiên, nỗi nhớ con người và nỗi nhớ những kỉ niệm gắn bó. Nỗi nhớ ấy được thể hiện qua giọng thơ tha thiết, sâu lắng, sử dụng thể thơ lục bát nhuần nhuyễn, uyển chuyển.

Trên đây yêu văn học đã chia sẻ đến quý bạn đọc bài viết Phân tích Việt Bắc . Hy vọng bài viết đã cung cấp đến quý bạn đọc những thông tin hay và hữu ích, chúc các bạn có thể chinh phục được những bài văn khó và đạt được điểm cao trong học tập. Một lần nữa thay mặt đội ngũ yêu văn học xin cảm ơn bạn đã lựa chọn chúng tôi để tham khảo!