SOẠN VĂN BÀI BÀI CA NGẤT NGƯỞNG – SÁCH KẾT NỐI TRI THỨC LỚP 11 TẬP 2
Hướng dẫn soạn bài Bài ca ngất ngưởng – Sách kết nối tri thức lớp 11 tập 2 chi tiết, đầy đủ nhất. Thông qua việc thực hành trả lời các câu hỏi trong phần hướng dẫn và bài tập, chúng ta có thể củng cố kiến thức cơ bản về tác phẩm này.
- Liệt kê những từ ngữ mang tính chất tự xưng của tác giả trong bài hát nói. Những từ ngữ ấy thể hiện phong cách, tư tưởng của nhân vật trữ tình khi tự nhìn nhận về mình như thế nào?
Trong bài thơ “Bài ca ngất ngưởng” của Nguyễn Công Trứ, tác giả đã sử dụng những từ ngữ mang tính chất tự xưng, đó là:
- Ông Hi Văn tài bộ
- Tay ngất ngưởng
- Ông ngất ngưởng
- Phường Hàn Phú
Những từ ngữ tự xưng này đã góp phần thể hiện phong cách, tư tưởng của nhân vật trữ tình khi tự nhìn nhận về mình:
- Phong cách tự do, phóng khoáng, yêu đời: Tác giả tự nhận mình là “ông Hi Văn tài bộ” để khẳng định tài năng, học thức của mình. Nhưng đồng thời, ông cũng tự xưng là “tay ngất ngưởng” để thể hiện cái tôi cá nhân, sự độc lập, tự chủ của mình. Ông không tuân theo những quy tắc, khuôn khổ của xã hội, mà sống theo cách riêng của mình.
- Tư tưởng tự tôn, tự hào: Tác giả tự tin, hài hước khi tự nhận mình là “ông ngất ngưởng”, “phường Hàn Phú”. Điều này cho thấy ông có tư tưởng tự tôn, tự hào về bản thân, không hề bị gò bó bởi những định kiến của xã hội.
- Căn cứ vào mạch ý của bài thơ, có thể chia bố cục tác phẩm thành mấy phần? Nêu ý chính của mỗi phần.
Căn cứ vào mạch ý của bài thơ, có thể chia bố cục tác phẩm thành 3 phần như sau:
Phần 1 (6 câu đầu): Ngất ngưởng trong công danh, sự nghiệp
- Khẳng định tài năng, học thức, lí tưởng trung quân của bản thân: “Ông Hi Văn tài bộ mệnh nguyên lai, Văn chương, võ lược, kinh bang tế thế.”
- Thái độ sống ngất ngưởng, phóng khoáng, tự do, coi thường danh lợi: “Công danh bạc bẽo như vôi, Đã chôn vùi mấy độ người xe.”
Phần 2 (12 câu tiếp): Ngất ngưởng trong lối sống, suy nghĩ
- Sống tự do, thoải mái, không bị ràng buộc bởi những quy tắc, khuôn khổ của xã hội: “Chẳng có manh giáp, chẳng cần đao cung, Gót tiên theo đủng đỉnh một đôi dì.”
- Thái độ sống lạc quan, yêu đời, coi thường những lời khen chê của người đời: “Được mất dương dương tự đắc, Khen chê phơi phới dăm ba tiếng.”
Phần 3 (còn lại): Lời khẳng định về sự ngất ngưởng vô địch
- Khẳng định cái tôi cá nhân, sự độc lập, tự chủ của bản thân: “Ngựa non há biết cành cong, Cá chậu ao làng hóa cá sông.”
- Thái độ sống ung dung, tự tại, coi thường mọi thứ trên đời: “Làm trai đứng giữa đất cờ, Giang sơn là gấm vóc của ta.”
- Tra từ điển và chỉ ra những nét nghĩa khác nhau của từ “ngất ngưởng”. Căn cứ vào mạch ý của văn bản để xác định ý nghĩa của từ này ở từng trường hợp xuất hiện.
Theo từ điển tiếng Việt, từ “ngất ngưởng” có hai nghĩa chính:
- Nghĩa 1: ở thế không vững, lắc lư nghiêng ngả như chực ngã.
- Nghĩa 2: khác thường, vượt lên thói thường, coi thường dư luận.
Trong bài thơ “Bài ca ngất ngưởng” của Nguyễn Công Trứ, từ “ngất ngưởng” được sử dụng với nghĩa thứ hai, nghĩa là khác thường, vượt lên thói thường, coi thường dư luận. Cụ thể, từ “ngất ngưởng” được nhắc đi nhắc lại 4 lần trong bài thơ, ở các trường hợp sau:
- Tại câu thơ đầu: “Ông Hi Văn tài bộ mệnh nguyên lai, Văn chương, võ lược, kinh bang tế thế. Ngất ngưởng cả một bầu trời đất.”
Ở câu thơ này, từ “ngất ngưởng” được sử dụng để khẳng định tài năng, học thức của tác giả. Tác giả tự nhận mình là “ông Hi Văn tài bộ” để thể hiện tài năng, học thức của mình. Nhưng đồng thời, ông cũng tự xưng là “tay ngất ngưởng” để thể hiện cái tôi cá nhân, sự độc lập, tự chủ của mình. Ông không tuân theo những quy tắc, khuôn khổ của xã hội, mà sống theo cách riêng của mình.
- Tại câu thơ thứ bảy: “Chẳng có manh giáp, chẳng cần đao cung, Gót tiên theo đủng đỉnh một đôi dì.”
Ở câu thơ này, từ “ngất ngưởng” được sử dụng để thể hiện lối sống tự do, phóng khoáng, không bị ràng buộc bởi những quy tắc, khuôn khổ của xã hội. Tác giả không quan tâm đến những danh lợi phù phiếm, mà chỉ muốn sống một cuộc đời tự do, thoải mái, theo ý mình.
- Tại câu thơ thứ mười hai: “Được mất dương dương tự đắc, Khen chê phơi phới dăm ba tiếng.”
Ở câu thơ này, từ “ngất ngưởng” được sử dụng để thể hiện thái độ sống lạc quan, yêu đời, coi thường những lời khen chê của người đời. Tác giả không quan tâm đến những lời khen chê của người khác, mà chỉ sống một cuộc đời vui vẻ, tự tại.
- Tại câu thơ cuối cùng: “Làm trai đứng giữa đất cờ, Giang sơn là gấm vóc của ta.”
Ở câu thơ này, từ “ngất ngưởng” được sử dụng để thể hiện thái độ sống ung dung, tự tại, coi thường mọi thứ trên đời. Tác giả tự tin, hài hước khi tự nhận mình là “ông ngất ngưởng”, “phường Hàn Phú”. Điều này cho thấy ông có tư tưởng tự tôn, tự hào về bản thân, không hề bị gò bó bởi những định kiến của xã hội.
- Thái độ sống, phong cách sống “ngất ngưởng” đã được tác giả thể hiện ở những phương diện, khía cạnh cụ thể nào? Suy nghĩ của bạn về cách lựa chọn lối sống, cách ứng xử cũng như cá tính của tác giả.
Có thể thấy, thái độ sống, phong cách sống ngất ngưởng của Nguyễn Công Trứ là một thái độ sống tích cực, mang tính nhân văn. Nó thể hiện cái tôi cá nhân mạnh mẽ, ý chí, nghị lực của tác giả. Thái độ sống ngất ngưởng của ông đã vượt lên những quy tắc, khuôn phép của xã hội phong kiến, góp phần khẳng định giá trị của con người.
Theo tôi, cách lựa chọn lối sống, cách ứng xử cũng như cá tính của Nguyễn Công Trứ là đáng trân trọng. Ông là một người có tài năng, học thức, nhưng lại không bị danh lợi ràng buộc. Ông sống một cuộc đời tự do, phóng khoáng, lạc quan, yêu đời. Ông là một tấm gương sáng về ý chí, nghị lực, dám sống và dám làm theo cách riêng của mình.
- Nêu nhận xét về phong cách ngôn ngữ của tác giả thể hiện trong bài hát nói (chú ý các phương diện: cách sử dụng từ ngữ, hình ảnh; các biện pháp tu từ; vần và nhịp điệu).
Vần điệu của bài thơ được sắp xếp theo kiểu vần điệu lẻ tẻ, không theo một quy luật nhất định, tạo nên âm hưởng phóng khoáng, tự do, phù hợp với phong cách sống ngất ngưởng của tác giả.
Nhịp điệu của bài thơ cũng được sắp xếp theo kiểu nhịp điệu lẻ tẻ, có lúc nhanh, có lúc chậm, tạo nên sự linh hoạt, biến hóa, phù hợp với nội dung của từng đoạn thơ.
Nhìn chung, phong cách ngôn ngữ của Nguyễn Công Trứ trong bài hát nói “Bài ca ngất ngưởng” là phong cách ngôn ngữ độc đáo, mang đậm dấu ấn cá nhân của tác giả. Phong cách ngôn ngữ này được thể hiện rõ qua cách sử dụng từ ngữ, hình ảnh, biện pháp tu từ, vần và nhịp điệu.
- Trình bày suy nghĩ của bạn về sự hội tụ những yếu tố đối lập trong phong cách hành xử của Nguyễn Công Trứ được thể hiện ở bài hát nói. Ngoài chủ đề chính, Bài ca ngất ngưởng còn có chủ đề nào khác?
Trong bài hát nói “Bài ca ngất ngưởng”, Nguyễn Công Trứ đã thể hiện một phong cách hành xử ngất ngưởng, độc đáo, mang đậm dấu ấn cá nhân. Phong cách này được thể hiện qua sự hội tụ những yếu tố đối lập, tưởng như không thể dung hòa.
Ngoài chủ đề chính là thể hiện phong cách hành xử ngất ngưởng của Nguyễn Công Trứ, bài hát nói “Bài ca ngất ngưởng” còn có thể được xem là một bài thơ trữ tình tuyên ngôn về nhân cách, lý tưởng của tác giả.
Tác giả khẳng định tài năng, học thức, lí tưởng trung quân của bản thân, nhưng đồng thời cũng thể hiện thái độ sống ngất ngưởng, phóng khoáng, tự do, yêu đời của mình. Thái độ sống ngất ngưởng của ông đã vượt lên những quy tắc, khuôn phép của xã hội phong kiến, góp phần khẳng định giá trị của con người.
- Theo bạn, hình ảnh con người nhà Nho nhập thế – hành đạo và hình ảnh con người phóng túng – tài tử trong bài thơ có tạo nên sự đối lập về nhân cách không? Vì sao?
Trên bề ngoài, hình ảnh con người nhà Nho nhập thế – hành đạo và hình ảnh con người phóng túng – tài tử có vẻ đối lập nhau. Con người nhà Nho luôn coi trọng danh lợi, công danh, trong khi con người phóng túng – tài tử lại coi thường danh lợi, và chỉ muốn sống một cuộc đời tự do, theo cách riêng của mình.
Tuy nhiên, nếu nhìn sâu xa hơn, ta sẽ thấy rằng hai hình ảnh này không hoàn toàn đối lập nhau. Con người nhà Nho nhập thế – hành đạo cũng có thể là những người có tài năng, học thức, và có thể sống một cuộc đời tự do, phóng khoáng. Trong bài thơ “Bài ca ngất ngưởng”, Nguyễn Công Trứ là một ví dụ điển hình cho sự dung hòa giữa hai hình ảnh này.
Nguyễn Công Trứ là một người có tài năng, học thức, và có lí tưởng trung quân. Ông đã từng tham gia vào các cuộc chiến tranh của nhà Nguyễn, và từng được thăng đến chức Tuần phủ Quảng Nam. Tuy nhiên, ông cũng là người có lối sống phóng khoáng, tự do, coi thường danh lợi. Ông đã từng cáo quan về ở ẩn, và sống một cuộc đời tự do, theo cách riêng của mình.
Thái độ sống ngất ngưởng của Nguyễn Công Trứ là sự thể hiện của cái tôi cá nhân mạnh mẽ, của khát vọng được sống một cuộc đời tự do, theo cách riêng của mình. Thái độ sống này đã vượt lên những quy tắc, khuôn phép của xã hội phong kiến, góp phần khẳng định giá trị của con người.
KẾT NỐI ĐỌC – VIẾT
Viết đoạn văn (khoảng 150 chữ) bàn về cách ứng xử trước sự được mất, khen chê, may rủi,… mà tác giả đã thể hiện trong Bài ca ngất ngưởng
Được mất, khen chê, may rủi là những điều rất tự nhiên, xảy ra thường xuyên trong cuộc sống của chúng ta. Qua góc nhìn của Nguyễn Công Trứ trong “Bài ca ngất ngưởng”, ta dường như hiểu ra được một lý lẽ về sự được mất trong cuộc sống. Ông đã từng là quan, một người cống hiến hết sức mình vì đất nước, nhưng nay ông đã chấp nhận rời bỏ và bản thân ông cũng không thấy hối tiếc. Tại sao lại như vậy? Bởi với ông, cuộc sống quan trường không phải là cuộc sống mong ước của ông, thứ ông mong muốn là cuộc sống nhàn hạ, tự do tự tại giữa đời, bởi vậy mà sự được mất, khen chê … ông nhận được nó như là hư vô, những thứ nhỏ bé không đáng nhắc đến, bởi vậy mà cuộc sống của ông ngay cả ở chốn quan trường hay cuộc sống hiện tại đều rất hiên ngang, tự do tự tại. Cuộc sống phóng khoáng, tự do của ông phần nào nhắc nhở chúng ta về cuộc sống thực tại, đừng lúc nào cũng chăm chăm vào sự được mất, may rủi, khen chê ở đời… bởi tất cả chỉ là những lời nói thoáng qua, đừng để nó ảnh hưởng quá nhiều đến bản thân và hãy sống đúng với những gì mình muốn, những gì mình đang có với cá tính thật của mình một cách chừng mực.
Với những hướng dẫn soạn bài Bài ca ngất ngưởng – Sách kết nối tri thức lớp 11 tập 2 chi tiết như trên. Hy vọng sẽ giúp các bạn nắm được những ý chính của tác phẩm này. Chúc các bạn có những bài soạn thật tốt, để thuận tiện trong quá trình tiếp thu bài giảng.