Soạn bài Viết văn bản nghị luận về một vấn đề xã hội trong tác phẩm văn học

Hướng dẫn soạn bài Viết văn bản nghị luận về một vấn đề xã hội trong tác phẩm văn học – Sách Chân trời sáng tạo lớp 11 chi tiết, đầy đủ nhất. Thông qua việc thực hành trả lời các câu hỏi trong phần hướng dẫn và bài tập, chúng ta có thể củng cố kiến thức cơ bản về bài học này.

Câu 1 (trang 30, SGK Ngữ Văn 11, tập hai):

Người viết có quan điểm như thế nào về vấn đề xã hội đặt ra trong tác phẩm văn học?

Trả lời

Văn học là một hiện tượng tinh thần đặc biệt, có chức năng phản ánh hiện thực và khám phá con người. Thông qua những tác phẩm văn học, người viết không chỉ mang đến cho người đọc những câu chuyện hấp dẫn, mà còn gửi gắm những quan điểm về vấn đề xã hội.

Hai quan điểm được nêu ra trong đoạn văn trên là những quan điểm sâu sắc về mối quan hệ giữa con người với nhau và về ý nghĩa của cống hiến trong cuộc sống.

Quan điểm thứ nhất cho rằng đời sống là một cuộc chuyển hóa của cho và nhận, nhận và cho. Điều này có nghĩa là con người không thể sống tách biệt với người khác. Chúng ta cần phải kết nối với nhau, chia sẻ với nhau, giúp đỡ nhau, thì mới có thể tồn tại và phát triển. Tình cảm của chúng ta cũng là kết quả của quá trình tương tác với đồng loại. Khi chúng ta cho đi tình yêu thương, sự quan tâm, chúng ta sẽ nhận lại được tình yêu thương, sự quan tâm từ người khác.

Quan điểm này là hoàn toàn đúng đắn. Con người là những sinh vật xã hội, chúng ta cần phải sống hòa hợp với nhau, cùng nhau xây dựng một cuộc sống tốt đẹp. Khi chúng ta cho đi, chúng ta sẽ nhận lại được rất nhiều thứ, không chỉ là tình cảm, mà còn là sự sẻ chia, đồng cảm, và cả những giá trị tinh thần cao đẹp.

Quan điểm thứ hai cho rằng chỉ cần tận tụy với lí tưởng cống hiến của mình, dù thành tự có nhỏ bé, bạn vẫn là người đã để lại cho cuộc sống một nền móng, một mảng nào đó của một thành tựu lớn lao. Điều này có nghĩa là cống hiến là một hành động cao đẹp, có ý nghĩa to lớn đối với cuộc sống. Dù thành tựu của bạn có nhỏ bé, nhưng bạn vẫn là người đã góp phần làm cho cuộc sống trở nên tốt đẹp hơn.

Quan điểm này cũng rất đúng đắn. Cống hiến là một hành động thể hiện trách nhiệm của mỗi người đối với xã hội. Khi chúng ta cống hiến, chúng ta không chỉ giúp đỡ người khác, mà còn góp phần xây dựng một xã hội tốt đẹp hơn. Dù thành tựu của bạn có nhỏ bé, nhưng bạn vẫn là người đã để lại cho cuộc sống một dấu ấn, một giá trị tinh thần.

Hai quan điểm trên đã mang đến cho người đọc những suy ngẫm sâu sắc về mối quan hệ giữa con người với nhau và về ý nghĩa của cống hiến trong cuộc sống. Những quan điểm này là những bài học quý giá, giúp chúng ta sống có ý nghĩa hơn.

Câu 2 (trang 30, SGK Ngữ Văn 11, tập hai):

Để làm rõ quan điểm của mình, người viết đã đưa ra những luận điểm nào?

Trả lời

Để làm rõ quan điểm của mình, người viết đã đưa ra một loạt những luận điểm:

– “Sống trọn vẹn là biết cho đi, như việc dâng tặng “chiếc ly tràn đầy cuộc sống” của nhân vật trữ tình trong đoạn thơ”

– “Sống trọn vẹn là kiên trì cống hiến, theo đuổi lý tưởng”

Câu 3 (trang 30, SGK Ngữ Văn 11, tập hai):

Mỗi luận điểm, lí lẽ và bằng chứng có sự kết hợp với nhau như thế nào? Phân tích một ví dụ để làm rõ.

Trả lời

Ba yếu tố luận điểm, lí lẽ và bằng chứng có sự kết hợp, bổ sung ý nghĩa cho lẫn nhau. Luận điểm là tiền đề để phát triển các lí lẽ, bằng chứng và ngược lại, lí lẽ, bằng chứng là yếu tố làm rõ luận điểm.

Ví dụ, trong đoạn văn bạn đã cung cấp, tác giả đưa ra luận điểm “sống trọn vẹn là biết cho đi”. Để làm rõ luận điểm này, tác giả đã đưa ra những lí lẽ và bằng chứng cụ thể như:

  • Một đứa trẻ chỉ có thể lớn lên khi được chăm sóc bởi cha mẹ, gia đình – nhận sự dưỡng nuôi từ thân nhân.
  • Sau đó đứa trẻ sẽ nhận được sự giáo dục của nhà trường, sự bảo trợ từ xã hội.
  • Lớn lên, nó lao động và ngầm thực hiện một giao kết xã hội giữa quyền lợi và nghĩa vụ đất nước.

Những lí lẽ và bằng chứng này đã làm sáng tỏ luận điểm “sống trọn vẹn là biết cho đi”. Chúng cho thấy rằng con người không thể sống tách biệt với người khác, mà cần phải biết cho đi, giúp đỡ người khác. Khi chúng ta cho đi, chúng ta sẽ nhận lại được rất nhiều thứ, không chỉ là tình cảm, mà còn là sự sẻ chia, đồng cảm, và cả những giá trị tinh thần cao đẹp.

Ngược lại, nhờ luận điểm “sống trọn vẹn là biết cho đi” mà những lí lẽ và bằng chứng trên mới được thấu đáo, cụ thể, rõ ràng và phù hợp. Nếu không có luận điểm thì việc đưa ra lý lẽ, bằng chứng trên làm cho bài văn lan man, sáo rỗng, không có mục đích rõ ràng.

Câu 4 (trang 30, SGK Ngữ Văn 11, tập hai):

Mở bài, thân bài và kết bài của ngữ liệu đã đáp ứng được yêu cầu của kiểu bài nghị luận về một vấn đề xã hội trong tác phẩm văn học chưa? Vì sao?

Trả lời

Mở bài, thân bài và kết bài của ngữ liệu đã đáp ứng được yêu cầu của kiểu bài nghị luận về một vấn đề xã hội trong tác phẩm văn học

Mở bài của ngữ liệu đã nêu được rõ ràng vấn đề nghị luận: mối quan hệ giữa con người với tự nhiên trong tác phẩm văn học Kiến và người. Thân bài của ngữ liệu đã triển khai vấn đề một cách logic, chặt chẽ, bao quát được nhiều khía cạnh của vấn đề. Kết bài của ngữ liệu đã khái quát lại vấn đề và khẳng định lại quan điểm của người viết.

Điểm đặc biệt của ngữ liệu là việc tác giả đã sử dụng những lí lẽ, dẫn chứng chặt chẽ, mang tính thuyết phục người đọc. Những lí lẽ, dẫn chứng này được soi chiếu vấn đề trên nhiều khía cạnh, có những những cơ sở vững chắc làm điểm tựa. Các lí lẽ, dẫn chứng tác giả đưa ra hoàn toàn có cơ sở, xác thực từ đó làm nên sức hấp dẫn, thuyết phục của văn bản nghị luận.

Cụ thể, trong phần thân bài, tác giả đã đưa ra những lí lẽ, dẫn chứng sau để chứng minh cho quan điểm “bầy kiến đại diện cho thế giới tự nhiên, là những sinh vật nhỏ bé nhưng có sức sống mãnh liệt. Sự nổi dậy của bầy kiến chính là sự phản kháng lại những hành động phá hủy môi trường của con người”.

Những lí lẽ, dẫn chứng này đã làm sáng tỏ luận điểm của tác giả. Chúng cho thấy rằng bầy kiến đại diện cho thế giới tự nhiên, là những sinh vật nhỏ bé nhưng có sức sống mãnh liệt. Sự nổi dậy của bầy kiến chính là sự phản kháng lại những hành động phá hủy môi trường của con người.

Ngoài ra, tác giả cũng đã sử dụng những lí lẽ, dẫn chứng khác để chứng minh cho quan điểm “con người cần phải có ý thức bảo vệ môi trường, sống hòa hợp với thiên nhiên”.

Những lí lẽ, dẫn chứng này đã làm sáng tỏ luận điểm của tác giả. Chúng cho thấy rằng con người cần phải có ý thức bảo vệ môi trường, sống hòa hợp với thiên nhiên.

Câu 5 ( trang 30, SGK Ngữ Văn 11, tập hai):

Hãy viết bài văn nghị luận về mối quan hệ giữa con người với tự nhiên được gợi ra từ một trong ba truyện ngắn đã học.

Trả lời

Truyện ngắn “Kiến và người” của nhà văn Nguyễn Huy Thiệp được xây dựng dựa trên một tình huống tưởng tượng, hư cấu: bầy kiến nổi dậy, trả thù con người. Yếu tố tưởng tượng, hư cấu này đã góp phần tạo nên tính hấp dẫn, lôi cuốn cho câu chuyện, đồng thời cũng mang lại những ý nghĩa sâu sắc.

Trước hết, truyện ngắn “Kiến và người” đã cho thấy mối quan hệ giữa con người và tự nhiên là mối quan hệ tương hỗ, gắn bó mật thiết. Thiên nhiên là nguồn cung cấp cho con người những điều kiện cần thiết để tồn tại và phát triển. Con người cần phải bảo vệ thiên nhiên, sống hòa hợp với thiên nhiên thì mới có thể tồn tại và phát triển bền vững.

Trong truyện, bầy kiến đại diện cho thế giới tự nhiên. Chúng là những sinh vật nhỏ bé nhưng có sức sống mãnh liệt. Chúng có thể vượt qua những khó khăn, thử thách để sinh tồn và phát triển. Chúng có khả năng đoàn kết, hợp tác cao độ. Sự nổi dậy của bầy kiến chính là sự phản kháng lại những hành động phá hủy môi trường của con người.

Thông qua truyện ngắn “Kiến và người”, nhà văn Nguyễn Huy Thiệp đã gửi gắm một thông điệp ý nghĩa về mối quan hệ giữa con người và tự nhiên. Con người cần phải có ý thức bảo vệ môi trường, sống hòa hợp với thiên nhiên. Khi con người tàn phá môi trường sống của các loài sinh vật, chúng ta cũng đang tự phá hủy môi trường sống của chính mình.

Bên cạnh đó, truyện ngắn “Kiến và người” cũng cho thấy những hậu quả nghiêm trọng của việc con người phá hủy môi trường. Khi con người phá hủy môi trường, chúng ta đang làm mất đi những điều kiện cần thiết để tồn tại và phát triển. Chúng ta đang phải đối mặt với những hậu quả nghiêm trọng như: thiên tai, dịch bệnh, ô nhiễm môi trường,…

Truyện ngắn “Kiến và người” là một lời cảnh tỉnh cho con người về mối quan hệ giữa con người và tự nhiên. Con người cần phải thay đổi cách nhìn nhận về mối quan hệ này. Con người cần phải có ý thức bảo vệ môi trường, sống hòa hợp với thiên nhiên. Đó là trách nhiệm của mỗi người dân, mỗi quốc gia trên thế giới.

Với những hướng dẫn soạn bài Viết văn bản nghị luận về một vấn đề xã hội trong tác phẩm văn học – Sách Chân trời sáng tạo lớp 11 chi tiết như trên. Hy vọng sẽ giúp các bạn nắm được những ý chính của bài học này. Chúc các bạn có những bài soạn thật tốt, để thuận tiện trong quá trình tiếp thu bài giảng.