+ Luận điểm 1: Không ai sinh ra như một kẻ phi thường hoặc tầm thường mà cuộc sống bên ngoài phối hợp với những phản ứng bên trong của nội giới làm ta trở thành người phi thường hay tầm thường.
– Lý lẽ: Con người bình thường chính là con người đông đảo, con người phổ biến, ai cũng giống ai. Nhưng nhờ những khó khăn, phức tạp của đời sống đã tôi luyện nên tính chất phi thường trong con người bình thường.
– Những người vốn vẫn luôn nghĩ mình là những kẻ lớn lao, những người dễ gán cho định mệnh những quyền tối thượng độc tôn… sẽ không thể hiểu cuộc đời Kiều – người mang tính chất phi thường trong con người bình thường.
– Bằng chứng: bằng những bằng chứng từ nội dung Truyện Kiều để làm sáng tỏ lý lẽ mà tác giả bài viết đã đưa ra: Dù Kiều có trải qua biết bao thử thách, vùi dập, khốn đốn của cuộc sống dành cho mình nhưng nàng vẫn giữ được lẻ kinh nguyền, đó chính là kẻ phi thường.
Từ những lí lẽ và bằng chứng trên, có thể thấy rằng quan điểm của tác giả là hoàn toàn đúng đắn. Con người không phải là những sinh vật thụ động, bị động, mà là những chủ thể sáng tạo, có khả năng vượt qua mọi khó khăn, thử thách để đạt được những mục tiêu cao đẹp.
Có thể thấy, việc có luận điểm thôi chưa đủ, lí lẽ và bằng chứng đóng góp một phần không nhỏ vào việc diễn đạt nội dung. Bên cạnh đó việc có lý lẽ nhưng không có bằng chứng và ngược lại, có bằng chứng nhưng không có lý lẽ sẽ khiến cho nội dung bài trở nên mơ hồ, không thu hút, không tạo tính tin cậy với người đọc.
Tác giả đã kết hợp hài hòa giữa luận điểm, lí lẽ và bằng chứng. Luận điểm được nêu rõ ràng, lí lẽ được triển khai logic, chặt chẽ và bằng chứng được đưa ra cụ thể, chính xác. Chính nhờ sự kết hợp này đã giúp bài viết có tính logic, chặt chẽ và thuyết phục.
Câu 8 (trang 56, SGK Ngữ Văn 11, tập hai):
Điểm giống nhau, khác nhau trong cách nêu lí lẽ và đưa bằng chứng khi nghị luận về một vấn đề xã hội trong bài viết về tranh Đám cưới chuột (tác phẩm hội họa) và về nhân vật Thúy Kiều trong Truyện Kiều (tác phẩm văn học)
Trả lời
Điểm giống nhau: Những lí lẽ và bằng chứng đều được khai thác dựa vào nét đặc sắc từ nội dung của tác phẩm.
Điểm khác nhau:
Tác giả sử dụng những hình ảnh, màu sắc, kí hiệu mang tính biểu tượng để thể hiện những vấn đề xã hội cụ thể
Tác giả cũng sử dụng những hình ảnh, màu sắc, kí hiệu mang tính trừu tượng để thể hiện những vấn đề xã hội mang tính khái quát hơn.
Tác giả bài viết sử dụng văn phong và diễn đạt ngôn ngữ giàu hình ảnh, cảm xúc để truyền tải thông điệp về vấn đề xã hội.
Các lí lẽ và bằng chứng của tác giả bài viết được thể hiện qua các tình tiết và hành động của nhân vật.
Các bằng chứng thường được đưa ra qua các tình tiết và lời thoại của nhân vật. Điều này giúp cho bài viết trở nên sinh động, hấp dẫn hơn và dễ dàng đi vào lòng người đọc.
Câu 9 (trang 56, SGK Ngữ Văn 11, tập hai):
Hãy viết bài văn nghị luận về một vấn đề xã hội gợi ra từ một tác phẩm văn học hoặc tác phẩm nghệ thuật mà bạn quan tâm.
Trả lời
Tác phẩm “Chí Phèo” của Nam Cao là một trong những tác phẩm văn học tiêu biểu của nền văn học hiện thực phê phán Việt Nam. Qua tác phẩm, nhà văn đã thể hiện một cách chân thực và sâu sắc sức mạnh của tình yêu thương giữa con người với con người.
Trước khi gặp Thị Nở, Chí Phèo là một con người bị tha hóa hoàn toàn. Hắn sống trong sự bế tắc, tuyệt vọng, chìm đắm trong men rượu và những hành động tàn bạo. Hắn là nỗi kinh hoàng của làng Vũ Đại, bị mọi người xa lánh, coi như quỷ dữ.
Nhưng rồi, tình yêu đã đến với Chí Phèo một cách bất ngờ. Thị Nở là một người đàn bà xấu xí, dở hơi, nhưng lại mang trong mình một tấm lòng nhân hậu, chân thành. Bát cháo hành nóng hổi, những cử chỉ ân cần, chu đáo của Thị Nở đã đánh thức phần “người” trong Chí Phèo. Hắn cảm nhận được những cảm xúc mà bấy lâu nay anh đã đánh mất:
“Hắn thấy mắt mình ươn ướt. Hắn bỗng thấy thương thân mình đến lạ lùng. Hắn thấy có một người nào đó rất mực yêu thương hắn, và hắn thấy yêu thương người ấy vô cùng. . . . Hắn thèm lương thiện, hắn muốn làm hòa với mọi người biết bao!”
Chí Phèo khao khát được trở lại làm người lương thiện, được sống một cuộc sống bình dị, hạnh phúc. Anh đã mơ về một gia đình nhỏ, được làm một người chồng, một người cha tốt. Nhưng rồi, ước mơ ấy của Chí Phèo đã bị tan vỡ bởi sự vô cảm, tàn nhẫn của xã hội. Thị Nở đã trở mặt, bỏ đi theo lời của bà cô, còn Bá Kiến lại tìm cách tiếp tục bóc lột Chí Phèo.
Chí Phèo rơi vào tuyệt vọng, đau đớn. Anh đã giết Bá Kiến, rồi tự kết liễu cuộc đời mình. Cái chết của Chí Phèo là một lời tố cáo đanh thép xã hội phong kiến thối nát, chà đạp lên quyền sống của con người.
Tình yêu thương trong tác phẩm “Chí Phèo” là một tình yêu chân thực, giản dị, nhưng lại có sức mạnh vô cùng to lớn. Nó đã thức tỉnh phần “người” trong Chí Phèo, giúp anh nhận ra những giá trị tốt đẹp của cuộc sống và khao khát được trở lại làm người lương thiện. Tuy nhiên, tình yêu ấy cũng không thể vượt qua được những thế lực tàn bạo của xã hội. Cái chết của Chí Phèo là một lời tố cáo đanh thép xã hội phong kiến thối nát, chà đạp lên quyền sống của con người.
Tình yêu thương là một trong những giá trị cao đẹp nhất của con người. Nó có sức mạnh cảm hóa, giáo dục con người, giúp con người vượt qua những khó khăn, thử thách trong cuộc sống. Mỗi người chúng ta hãy biết trân trọng và phát huy tình yêu thương trong cuộc sống.
Với những hướng dẫn soạn bài Viết văn bản nghị luận về một vấn đề xã hội trong tác phẩm nghệ thuật hoặc tác phẩm văn học – Sách Chân trời sáng tạo lớp 11 chi tiết như trên. Hy vọng sẽ giúp các bạn nắm được những ý chính của bài học này. Chúc các bạn có những bài soạn thật tốt, để thuận tiện trong quá trình tiếp thu bài giảng.
Bình Luận