Soạn bài Viết bài nghị luận về một vấn đề đặt ra trong tác phẩm văn học

Hướng dẫn Soạn bài Viết bài nghị luận về một vấn đề đặt ra trong tác phẩm văn học – Sách Cánh Diều Lớp 11 chi tiết, đầy đủ nhất. Thông qua việc thực hành trả lời các câu hỏi trong phần hướng dẫn và bài tập, chúng ta có thể củng cố kiến thức cơ bản về tác phẩm này.

1) Định hướng

1.1. Ở Bài 1, các em đã học kiểu bài nghị luận về một tư tưởng, đạo lí. Trong bài này, các em sẽ học cách nghị luận về một vấn đề xã hội đặt ra trong tác phẩm văn học. Đây là dạng bài đòi hỏi các em phải có kiến thức cả về văn học và đời sống, cả kĩ năng phân tích văn học và kĩ năng phân tích, đánh giá một vấn đề xã hội. Đề bài thường xuất phát từ một vấn đề xã hội giàu ý nghĩa có trong một tác phẩm văn học để yêu cầu học sinh bàn bạc mở rộng. Ví dụ:

   – Từ bài thơ Tôi yêu em (Puskin), hãy bàn về một phẩm chất cần có của con người trong tình yêu đôi lứa.

   – Từ truyện Chữ người tử tù (Nguyễn Tuân), em hãy suy nghĩ về mối quan hệ giữa cái “tài” và cái “tâm”, giữa cái “đẹp” và cái “thiện”.

1.2. Để viết bài nghị luận về một vấn đề xã hội đặt ra trong tác phẩm văn học, các em cần chú ý:

   – Phân tích đề bài và xác định vấn đề có ý nghĩa đặt ra trong văn bản.

   – Đọc kĩ văn bản văn học được nêu trong đề.

   – Tìm ý và lập dàn ý cho bài viết. Cần nêu được ít nhất hai ý lớn:

(1) Giới thiệu và phân tích vấn đề xã hội đặt ra trong tác phẩm văn học.

(2) Bàn luận về vấn đề xã hội đó trong đời sống.

Trong hai ý trên, ý (2) là trọng tâm của bài viết. Vấn đề xã hội đặt ra trong tác phẩm văn học ở ý (1) chỉ là đề tài để người viết bàn bạc, trao đổi, mở rộng, nâng cao ở ý (2).

   – Thể hiện rõ thái độ, tình cảm khi bàn luận về vấn đề đã nêu. Vận dụng được kiến thức và những trải nghiệm của cá nhân người viết.

2) Thực hành

2.1. Thực hành viết theo các bước

Bài tập: Từ truyện “Chí Phèo” (Nam Cao), em hãy bàn về sức mạnh của tình yêu thương giữa con người với con người.

  1. a) Chuẩn bị

– Đọc kĩ đề bài, xác định vấn đề cần bàn luận, các thao tác lập luận cần sử dụng, phạm vi dẫn chứng.

– Đọc lại truyện Chí Phèo (Nam Cao), tìm hiểu mối quan hệ giữa các nhân vật trong truyện, đặc biệt là mối quan hệ giữa Chí Phèo và thị Nở, thấy được vai trò của thị Nở đối với quá trình thức tỉnh của Chí Phèo.

– Đọc thêm sách, báo và các nguồn tư liệu khác, kết hợp với quan sát và trải nghiệm để thấy được những biểu hiện và sức mạnh của tình yêu thương giữa con người với con người; ghi chép lại những thông tin cần thiết.

  1. b) Tìm ý và lập dàn ý

– Tìm ý: Dựa vào những gợi ý đã nêu ở ý 1.2, mục 1. Định hướng và kết quả chuẩn bị trên đây, tiến hành tìm ý cho bài viết theo suy luận từ khái quát đến cụ thể.

– Lập dàn ý cho bài viết bằng cách lựa chọn, sắp xếp các ý đã tìm được theo bố cục ba phần:

Mở bài

  • Giới thiệu vấn đề cần nghị luận: sức mạnh của tình yêu thương giữa con người với con người.
  • Khẳng định tình yêu thương là một trong những giá trị cao đẹp nhất của con người.

Thân bài

  • Biểu hiện của tình yêu thương trong truyện Chí Phèo
    • Tình yêu thương của Thị Nở
      • Tình cảm chân thành, mộc mạc, giản dị của Thị Nở đối với Chí Phèo.
      • Sự chăm sóc ân cần, chu đáo của Thị Nở dành cho Chí Phèo khi anh bị ốm.
    • Tình yêu thương của Bá Kiến
      • Tình cảm của Bá Kiến đối với Chí Phèo là tình cảm mong muốn Chí Phèo trở thành công cụ cho hắn.
      • Tuy nhiên, tình cảm này cũng có phần chân thành, thể hiện qua việc Bá Kiến lo lắng khi Chí Phèo bị ốm.
  • Sức mạnh của tình yêu thương
    • Tình yêu thương đã giúp Chí Phèo thức tỉnh lương tri, nhận ra bản chất con người của mình.
    • Tình yêu thương đã giúp Chí Phèo khao khát được trở lại cuộc sống lương thiện.
    • Tình yêu thương đã giúp Chí Phèo có thêm sức mạnh để đấu tranh cho cuộc sống của mình.
  • Ý nghĩa của tình yêu thương
    • Tình yêu thương là nguồn động lực to lớn giúp con người vượt qua khó khăn, thử thách.
    • Tình yêu thương giúp con người sống đẹp, sống có ý nghĩa.
    • Tình yêu thương là sợi dây gắn kết con người lại với nhau, tạo nên một xã hội tốt đẹp.

Kết bài

  • Khẳng định lại vấn đề nghị luận.
  • Liên hệ thực tế, rút ra bài học cho bản thân.

c) Viết

* Bài viết mẫu tham khảo

Chí Phèo là một trong những tác phẩm xuất sắc của nhà văn Nam Cao, phản ánh chân thực hiện thực xã hội Việt Nam trước Cách mạng tháng Tám. Truyện đã thể hiện sâu sắc sức mạnh của tình yêu thương giữa con người với con người.

Tình yêu thương trong truyện Chí Phèo được thể hiện qua hai mối quan hệ chính: mối quan hệ giữa Chí Phèo và Thị Nở, mối quan hệ giữa Chí Phèo và Bá Kiến.

Tình yêu thương của Thị Nở dành cho Chí Phèo là tình cảm chân thành, mộc mạc, giản dị. Thị Nở là người phụ nữ xấu xí, dở hơi nhưng lại có tấm lòng nhân hậu, vị tha. Khi Chí Phèo bị ốm, Thị Nở đã chăm sóc anh một cách ân cần, chu đáo. Thị đã nấu cháo hành cho Chí Phèo, một món ăn mà Chí Phèo chưa bao giờ được ăn. Chính hành động này của Thị Nở đã đánh thức bản chất lương thiện của Chí Phèo.

Tình yêu thương của Bá Kiến dành cho Chí Phèo cũng có phần chân thành. Khi Chí Phèo bị ốm, Bá Kiến đã lo lắng, hỏi han. Tuy nhiên, tình cảm này của Bá Kiến cũng có phần ích kỉ, vụ lợi. Bá Kiến muốn Chí Phèo trở thành công cụ cho hắn.

Sức mạnh của tình yêu thương đã được thể hiện rõ nét qua nhân vật Chí Phèo. Tình yêu thương của Thị Nở đã giúp Chí Phèo thức tỉnh lương tri, nhận ra bản chất con người của mình. Chí Phèo đã khao khát được trở lại cuộc sống lương thiện. Tình yêu thương của Thị Nở cũng đã giúp Chí Phèo có thêm sức mạnh để đấu tranh cho cuộc sống của mình. Chí Phèo đã quyết định trở về làng Vũ Đại để đòi lại quyền làm người.

Tình yêu thương là nguồn động lực to lớn giúp con người vượt qua khó khăn, thử thách. Tình yêu thương giúp con người sống đẹp, sống có ý nghĩa. Tình yêu thương là sợi dây gắn kết con người lại với nhau, tạo nên một xã hội tốt đẹp.

Tóm lại, tình yêu thương là một trong những giá trị cao đẹp nhất của con người. Tình yêu thương giúp con người sống đẹp, sống có ý nghĩa. Mỗi người chúng ta cần biết trân trọng và gìn giữ tình yêu thương trong cuộc sống.

d) Kiểm tra và chỉnh sửa

Tham khảo các yêu cầu đã nêu ở Bài 1, phần Viết, mục d (trang 28); đối chiếu với dàn ý đề văn đã làm ở bài này.

2.2. Rèn luyện kĩ năng viết: Người viết và người đọc giả định, cách xưng hô trong bài viết

a) Cách thức

– Khi viết bài văn nghị luận, em cần hình dung mình là ai (người viết giả định) và viết cho ai đọc (người đọc giả định). Bên cạnh vị trí một người học, cần phải tạo ra bài viết theo yêu cầu của thầy, cô giáo mà còn có thể “đóng vai” một người nào đó để viết (như nhà báo, luật sư, nhà khoa học,…) và hướng tới một đối tượng người đọc mà em hình dung, tưởng tượng (bạn bè, thầy cô, các bậc phụ huynh, quan tòa, hiệu trưởng, nguyên thủ quốc gia,…)

Cần xác định người viết giả định và người đọc giả định vì các đối tượng giả định ấy chi phối việc xác định nội dung, cách triển khai và sử dụng ngôn ngữ, nhất là cách xưng hô của em trong bài viết.

– Từ vị trí của người viết và người đọc giả định, em sẽ lựa chọn cách xưng hô cũng như thể hiện giọng điệu cho phù hợp. Một số cặp đại từ xưng hô thường được sử dụng là: tôi – bạn/ các bạn, tôi – ông/ bà, tôi – quý ngài, tôi – ngài,…Việc sử dụng các từ ngữ xưng hô này sẽ góp phần tạo nên tính đối thoại và màu sắc biểu cảm cho bài viết.

Thông thường, để diễn đạt ấn tượng chủ quan của riêng mình, người viết thường xưng tôi: tôi cho rằng, tôi nghĩ rằng,…nhưng để khơi gợi sự đồng tình, ủng hộ của người đọc, người viết thường xưng chúng tôi, ta, chúng ta, mọi người đều biết,…Khi phân tích một nhân vật, gọi tên một tác giả nào đó, cần xác định một đại từ cho phù hợp và tránh sự đơn điệu, lặp lại. Chẳng hạn, khi phân tích nhân vật Chí Phèo, có thể dùng các từ y, gã, hắn, Chí Phèo, con quỷ làng Vũ Đại,…nhưng khi nói tới một Chí Phèo lương thiện thì cũng có thể dùng từ anh hay anh ta,…Khi nhắc đến tác giả, không nên lặp đi lặp lại các từ như nhà thơ, tác giả. Viết về Nguyễn Du chẳng hạn, có thể gọi ông bằng các từ như Nguyễn Du, Tố Như, nhà thơ, đại thi hào dân tộc, ông, tác giả “Truyện Kiều”,…Khi chưa xác định được lứa tuổi của tác giả thì tốt nhất dùng danh từ để gọi như: nhà văn, nhà thơ, tác giả,…; tránh trường hợp dùng những đại từ không chính xác, gọi ngược, tạo cảm giác khó chịu cho người đọc.

b) Bài tập

Bài tập: Hãy viết một đoạn văn cho luận điểm trong dàn ý đã lập ở ý 2.1, mục “2. Thực hành”, trong đó thể hiện cách xưng hô cho phù hợp với người đọc và người viết giả định.

* Đoạn văn mẫu tham khảo:

   – Luận điểm 2: Trong xã hội có rất nhiều mảnh đời chịu bất hạnh, đau thương, khổ cực, việc chúng ta yêu thương, đùm bọc, giúp đỡ lẫn nhau có thể làm xoa dịu, giảm bớt nỗi đau của họ, xã hội cũng sẽ phát triển đẹp đẽ, vững mạnh hơn. Ngoài ra, khi giúp đỡ người khác, ta sẽ nhận lại sự kính trọng, niềm tin yêu của người khác và cả sự sẵn sàng giúp đỡ lại mình lúc mình gặp khó khăn. Đúng vậy, đôi khi chỉ là chiếc bánh mì cho bác ăn xin cùng nụ cười hiền hậu, hay một quyển sách, một tấm áo ủng hộ cho trẻ em nghèo tuy nhỏ nhưng là cả tấm lòng của người cho đi, sẽ đem lại một hạnh phúc lớn cho người được nhận. Tình yêu thương là hạnh phúc của mỗi con người có thể hiểu rằng: khi tình thương được lan rộng sẽ đem lại hạnh phúc cho người khác, không chỉ là hạnh phúc của người được nhận tình thương mà còn là hạnh phúc của người đem tình thương đấy.

   – Luận điểm 3: Mỗi người biết chia sẻ, yêu thương, giúp đỡ người khác sẽ góp phần làm cho xã hội này giàu tình cảm hơn, phát triển văn minh hơn. Nhưng chắc hẳn chúng ta ai cũng biết, trong xã hội vẫn có không ít người có tính ích kỉ, nhỏ nhen, chỉ biết đến bản thân mình mà không cần suy nghĩ cho người khác, lại có những người vô cảm, lạnh lùng, thờ ơ, mặc kệ nỗi đau của đồng loại,… những người này sẽ không có được tình yêu thương, sự quan tâm và giúp đỡ của người khác. Mỗi con người chỉ được sống một lần duy nhất trên đời, chúng ta hãy sống trọn vẹn yêu thương, hết mình với con đường mình đã chọn để sau này không có gì phải hối tiếc.

Với những hướng dẫn Soạn bài Viết bài nghị luận về một vấn đề đặt ra trong tác phẩm văn học – Sách Cánh Diều Lớp 11 chi tiết như trên. Hy vọng sẽ giúp các bạn nắm được những ý chính của tác phẩm này. Chúc các bạn có những bài soạn thật tốt, để thuận tiện trong quá trình tiếp thu bài giảng.