Soạn bài Viết bài nghị luận so sánh, đánh giá hai tác phẩm thơ
Hướng dẫn soạn bài Viết bài nghị luận so sánh, đánh giá hai tác phẩm thơ Ngữ văn 12 tập 2 Cánh diều chi tiết, đầy đủ nhất. Thông qua việc thực hành trả lời các câu hỏi trong phần hướng dẫn và bài tập, chúng ta có thể củng cố kiến thức cơ bản về bài học này.
Định hướng
a) Viết bài nghị luận so sánh và đánh giá hai tác phẩm thơ là quá trình trình bày một cách thuyết phục những điểm giống và khác nhau, hoặc chỉ là những điểm tương đồng hay khác biệt về nội dung và hình thức nghệ thuật của hai bài thơ. Mục tiêu là từ đó đưa ra bình luận, nhận xét về giá trị độc đáo của từng tác phẩm, cũng như rút ra những quy luật chung trong sáng tác và tiếp nhận văn chương. Trong một bài nghị luận, thao tác so sánh được thực hiện qua việc phân tích những điểm tương đồng và khác biệt giữa hai bài thơ về các yếu tố như đề tài, chủ đề, nhân vật trữ tình, hình ảnh, cấu trúc, giọng điệu, nhạc điệu,… nhằm thuyết phục người đọc về một khía cạnh nào đó cần được làm rõ trong các hiện tượng thơ hoặc đời sống văn học. Kết quả của việc so sánh giúp người viết đưa ra những nhận xét và đánh giá sâu sắc. Ví dụ, nhà thơ Xuân Diệu đã so sánh một loạt bài thơ về mưa của Huy Cận như: Điệu buồn, Mưa, Buồn đêm mưa (trong tập Lửa thiêng), Mưa mười năm sau (1949), và thậm chí so sánh với các bài thơ về mưa của Đỗ Phủ, Nguyễn Du, trong ca dao, dân ca… Từ đó, Xuân Diệu chỉ ra niềm vui tươi mới trong bài Mưa xuân trên biển (1959) của Huy Cận. Khi bình luận về bài Sáng tháng Năm của Tố Hữu, Hoài Thanh đã so sánh hình ảnh mái tóc bạc của Hồ Chí Minh trong bốn bài thơ khác nhau của Tố Hữu để thể hiện “sức sáng tạo không ngừng” của nhà thơ.
Bài nghị luận so sánh và đánh giá hai tác phẩm thơ có thể xuất phát từ nhiều yêu cầu khác nhau như so sánh toàn bộ tác phẩm, yếu tố nội dung hoặc hình thức, hoặc chỉ so sánh một khổ thơ, một câu thơ, một đoạn thơ, hay một chi tiết, hình ảnh cụ thể nào đó trong hai bài thơ.
b) Để viết một bài nghị luận so sánh và đánh giá hai tác phẩm thơ, các em cần lưu ý những điểm sau:
- Xác định rõ mục đích so sánh và đánh giá (để làm sáng tỏ một vấn đề văn học hoặc thuyết phục về một quan điểm đánh giá nhất định).
- Chọn lựa đối tượng và phạm vi so sánh một cách rõ ràng (lựa chọn hai văn bản thơ cụ thể sẽ được đem ra phân tích).
- Lựa chọn các tiêu chí và phương diện so sánh phù hợp giữa hai văn bản thơ (về nội dung: như đề tài, chủ đề, cảm hứng,…; về nghệ thuật: như ngôn ngữ, hình ảnh, cấu trúc, biện pháp tu từ,…).
- Tiến hành phân tích những điểm tương đồng và khác biệt giữa các văn bản thơ, đồng thời đưa ra những lý giải hợp lý về nguyên nhân dẫn đến sự tương đồng và khác biệt đó.
- Trên cơ sở phân tích, đưa ra những nhận xét và đánh giá để làm nổi bật các quy luật chung trong sáng tác văn chương, đồng thời nhấn mạnh cái hay, cái đẹp, tính độc đáo và nét đặc sắc riêng của từng tác phẩm.
- So sánh không nên nhằm mục đích đề cao hay hạ thấp bất kỳ tác phẩm nào, và cũng không nên biến bài viết thành nơi phô trương kiến thức dẫn đến lạc đề hay thiếu tập trung.
- Đảm bảo cấu trúc bài viết rõ ràng, tuân thủ các nguyên tắc của một bài nghị luận văn học; dẫn chứng cần chính xác; lập luận phải chặt chẽ, logic; ngôn ngữ sử dụng cần có tính hình tượng và giàu cảm xúc.
Thực hành
2.1. Thực hành viết theo các bước
Bài tập: (SGK Ngữ văn 12 Tập 2 – Trang 76)
Hãy so sánh và nêu nhận xét, đánh giá của em về hai đoạn thơ sau:
Đoạn 1
“Ta đi, ta nhớ những ngày
Mình đây ta đó, đắng cay ngọt bùi…
Thương nhau, chia củ sắn lùi
Bát cơm sẻ nửa, chăn sui đắp cùng
Nhớ người mẹ nắng cháy lưng
Địu con lên rẫy bẻ từng bắp ngô
Nhớ sao lớp học i tờ
Đồng khuya đuốc sáng những giờ liên hoan
Nhớ sao ngày tháng cơ quan
Gian nan đời vẫn ca vang núi đèo.”
(Việt Bắc, Tố Hữu)
Đoạn 2
“Đôi khi chợt nhớ một tiếng cười lạ
Một câu ca dao buồn có hoa bưởi hoa ngâu
Một vết bùn khô trên mặt đá
Không có ai chia tay
Cũng nhớ một tiếng còi tàu.
Mẹ tôi thức khuya dậy sớm
Năm nay ngoài năm mươi tuổi
Chồng chết đã mười mấy năm
Thuở tôi mới đọc được i tờ
Mẹ thương tôi mẹ vẫn tảo tần
Nước sông gạo chợ.”
(Bài thơ của một người yêu nước mình, Trần Vàng Sao)
a) Chuẩn bị
- Xác định rõ mục đích của bài viết.
- Xác định kiểu bài viết và các thao tác nghị luận sẽ sử dụng.
- Chọn lựa phạm vi và giới hạn vấn đề cần nghị luận.
- Ôn lại nội dung và nghệ thuật của các văn bản có đoạn trích trên.
- Đọc hiểu sâu hơn về nội dung và các yếu tố nghệ thuật trong hai đoạn trích.
- b) Tìm ý và lập dàn ý
– Tìm ý cho bài viết bằng cách đặt và trả lời các câu hỏi sau:
- Đoạn thơ trong bài Việt Bắc có những đặc điểm nội dung và nghệ thuật nào nổi bật?
- Đoạn thơ trong bài Bài thơ của một người yêu nước mình có những đặc điểm gì về nội dung và nghệ thuật?
- Giữa hai đoạn thơ này, có những điểm nào tương đồng về nội dung và nghệ thuật?
- Những khác biệt về nội dung và nghệ thuật giữa hai đoạn thơ là gì?
- Em có nhận xét và đánh giá thế nào về những điểm tương đồng và khác biệt đó? (Gợi ý: Những điểm tương đồng và khác biệt này cho thấy giá trị chung và riêng gì của hai văn bản thơ? Điều gì ở mỗi bài thơ khiến em xúc động hoặc yêu thích nhất? Tại sao?).
– Lập dàn ý cho bài viết bằng cách chọn lọc và sắp xếp các ý theo bố cục ba phần: mở bài, thân bài, và kết bài.
c) Viết
– Viết bài văn theo dàn ý đã lập.
– Trong quá trình viết, cần lưu ý một số điểm sau:
- Kết nối các đoạn thơ với những phần khác trong hai tác phẩm Việt Bắc và Bài thơ của một người yêu nước mình, cũng như bối cảnh ra đời của chúng, để giải thích và làm rõ nội dung của mỗi đoạn thơ.
- Thể hiện quan điểm cá nhân một cách tự nhiên, nhưng phải hợp lý và thuyết phục.
- Có thể bổ sung những ý tưởng mới ngoài dàn ý, miễn là phù hợp với chủ đề nghị luận.
Bài mẫu tham khảo:
Đất nước từ lâu đã trở thành nguồn cảm hứng bất tận, tạo nên những vần thơ sống mãi với thời gian. Khi nhắc đến đề tài đất nước, ta không thể không nghĩ đến những dòng thơ mang đậm bản sắc dân tộc của Tố Hữu trong Việt Bắc hay Bài thơ của một người yêu nước mình của Trần Vàng Sao. Dù cùng một đề tài và nguồn cảm hứng, nhưng mỗi bài thơ lại tỏa sáng với nét độc đáo riêng biệt.
Trong Việt Bắc, ta cảm nhận được tình cảm gắn bó keo sơn giữa con người với nhau và tình yêu thiết tha, mặn nồng dành cho quê hương, đất nước. Tình yêu ấy được tác giả truyền tải qua những vần thơ đầy cảm xúc nhưng cũng không kém phần hào hùng, lạc quan trước chiến thắng của cách mạng.
Còn trong Bài thơ của một người yêu nước mình, Trần Vàng Sao đã khéo léo kết nối những hình ảnh tưởng chừng như đối lập và xa lạ, để chúng hòa quyện với nhau, tạo nên một bức tranh tình yêu nước gần gũi, đầy sức mạnh, đủ để con người chiến đấu và hy sinh vì quê hương.
Cả hai đoạn thơ đều khắc họa rõ nét hình ảnh người mẹ Việt Nam. Người mẹ hiện lên trong thơ với vẻ đẹp giản dị, tảo tần và chịu thương, chịu khó. Trong Việt Bắc, hình ảnh “người mẹ nắng cháy lưng” gợi lên sự tần tảo, vất vả với những động từ “địu con”, “bẻ từng” thể hiện sự chăm chỉ, nhẫn nại của người mẹ đang ngày đêm tích góp từng hạt bắp để nuôi dưỡng cách mạng. Trong khi đó, Bài thơ của một người yêu nước mình khắc họa hình ảnh người mẹ tảo tần, thầm lặng hy sinh qua hình ảnh người mẹ “áo rách” và nỗi đau sâu kín “đêm nào cũng khóc”. Một bên là tình cảm thân thương của các chiến sĩ cách mạng dành cho người mẹ Việt Bắc, một bên là tình mẫu tử thiêng liêng của đứa con dành cho mẹ. Mặc dù khác nhau về cảm xúc, nhưng cả hai tác phẩm đều tôn vinh bức tượng đài người mẹ Việt Nam, hiện thân của sự tảo tần, chịu thương, chịu khó, và hết lòng cống hiến cho Tổ Quốc.
Cả hai bài thơ cũng gợi lên ký ức đáng quý về lớp học bình dân học vụ, nơi ánh sáng của tri thức đã giúp nhân dân ta vượt qua bóng tối của giặc dốt. Những câu thơ như “Nhớ sao lớp học i tờ” và “Thuở tôi mới đọc được i tờ” nhắc nhở về nỗ lực không ngừng của Đảng và chính phủ trong việc mang chữ đến với người dân.
Xét về âm hưởng, Việt Bắc mang âm điệu ngọt ngào, êm ái của thể thơ lục bát, thể hiện tình cảm thiết tha đối với mảnh đất Việt Bắc. Ngược lại, Bài thơ của một người yêu nước mình lại mang âm hưởng trầm lắng, đượm buồn, thể hiện nỗi niềm suy tư sâu lắng, với tình yêu đất nước gắn kết mật thiết với gia đình và quê hương.
Về thể loại, Việt Bắc sử dụng thể lục bát truyền thống với cách gieo vần nhịp nhàng, tạo nên những câu thơ ngọt ngào, dễ đi vào lòng người, mang đậm bản sắc dân tộc. Trần Vàng Sao, ngược lại, chọn thể thơ tự do, với những câu thơ liền mạch, không dấu câu, như để thể hiện dòng cảm xúc trào dâng khi viết về đất nước.
Sự khác biệt giữa hai đoạn thơ phần nào phản ánh bối cảnh sáng tác của chúng. Việt Bắc ra đời sau Hiệp định Giơ-ne-vơ, khi miền Bắc nước ta vừa được giải phóng, nên đoạn thơ mang âm hưởng vui tươi, lạc quan. Ngược lại, Bài thơ của một người yêu nước mình được sáng tác vào năm 1967, khi đất nước còn chìm trong chiến tranh, tạo nên những vần thơ đượm buồn, thấm đẫm tình yêu nước sâu lắng.
Qua hai đoạn thơ, người đọc cảm nhận được những tình cảm sâu sắc về quê hương, đất nước, cùng những cảm xúc chân thành, tha thiết mà tác giả dành cho nơi chôn nhau cắt rốn. Đó là tình yêu quê hương, đất nước gắn bó keo sơn với con người Việt Nam, được thể hiện qua những vần thơ giàu cảm xúc và đầy ấn tượng.
d) Kiểm tra và chỉnh sửa
Hãy tham khảo các yêu cầu đã nêu ở Bài 6, phần Viết, mục d (trang 28). Sau đó, đối chiếu với dàn ý mà bạn đã lập trong bài này để đảm bảo rằng bài viết của bạn đáp ứng đầy đủ các tiêu chí đã đề ra.
2.2. Rèn luyện kỹ năng viết: Thao tác so sánh thơ
a) Cách thức
Để hiểu rõ cách so sánh thơ, hãy xem lại phần Định hướng ở mục 1. Phần này tập trung vào việc rèn luyện kỹ năng viết so sánh thông qua thực hành các bài tập cụ thể.
b) Bài tập: (SGK Ngữ văn 12 Tập 2 – Trang 78)
Đọc đoạn văn sau và thực hiện các yêu cầu bên dưới:
Có người cho rằng tình yêu mới chính là mùa xuân. Xuân Diệu đã viết về điều này:
“Xuân của đất trời nay mới đến
Trong tôi xuân đã đến lâu rồi
Từ lúc yêu nhau hoa nở mãi
Trong vườn thơm ngát của hồn tôi.”
(Nguyên đán)
Thơ tình của Xuân Diệu mạnh mẽ, dạt dào cảm xúc. Ngược lại, thơ tình của Nguyễn Bính lại mang nét sâu lắng, dịu dàng và đậm chất làng quê. Nguyễn Bính từng ao ước được kết duyên với người bạn thuở thiếu thời trong khung cảnh vườn xuân trắng xóa hoa cam rụng:
“Như chuyện Tương Như và Trác Thị
Đưa nhau về ở đất Lâm Cùng
Vườn xuân trắng xóa hoa cam rụng
Tôi với em Nhi kết vợ chồng.”
(Rượu và hoa)
Nhưng những ước ao đó chỉ là mộng tưởng. Chuyện tình duyên của Nguyễn Bính thường không trọn vẹn, và mùa xuân trong thơ ông cũng mang màu sắc của những tình duyên lỡ làng. Trong bài Mưa xuân, tác giả kể về chuyện hẹn hò đêm xuân nghe hát chèo, nhưng chàng trai đã lỡ hẹn, để lại cô gái với nỗi buồn bâng khuâng:
“Chờ mãi anh sang anh chẳng sang
Thế mà hôm nọ hát bên làng
Năm tao bảy tuyết anh hò hẹn
Để cả mùa xuân cũng nhỡ nhàng.”
(Mưa xuân)
Cảm xúc của cô gái chứa đựng chút hờn trách nhưng lại đầy thương cảm, như thể trách yêu mà không nỡ giận. Điều đó thể hiện sự đôn hậu trong tâm hồn người phụ nữ Việt Nam.
(Lê Tiến Dũng, Những bài thơ xuân của Nguyễn Bình, in trong Nguyễn Bính – Nhà thơ chân quê, NXB Văn hoá – thông tin, Hà Nội, 2000)
Gợi ý trả lời:
– Nội dung so sánh trong đoạn văn trên là cảnh sắc mùa xuân và tình yêu nam nữ. Phạm vi so sánh là những đoạn thơ trích dẫn từ tác phẩm của Xuân Diệu và Nguyễn Bính.
– Những câu văn nêu nhận xét, đánh giá của người viết:
- “Không mạnh mẽ và dạt dào như Xuân Diệu nhưng thơ tình Nguyễn Bính có cái sâu lắng, dịu dàng, bát ngát của làng quê.”
- “Nên mùa xuân của thơ ông cũng là mùa ‘tính số’ sự lỡ làng của tình duyên.”
- “Cái giọng có chút hờn trách nhưng đầy thương cảm. Đó là giọng trách yêu, trách mà không nỡ giận. Đấy cũng là cái đôn hậu của tâm hồn người phụ nữ Việt Nam.”
Với những hướng dẫn soạn bài Viết bài nghị luận so sánh, đánh giá hai tác phẩm thơ Ngữ văn 12 tập 2 Cánh diều chi tiết như trên. Hy vọng sẽ giúp các bạn nắm được những ý chính của bài học này. Chúc các bạn có những bài soạn thật tốt, để thuận tiện trong quá trình tiếp thu bài giảng.