Soạn bài Viết bài làm văn số 1: Nghị luận xã hội
Hướng dẫn soạn bài Viết bài làm văn số 1: Nghị luận xã hội chi tiết, đầy đủ nhất. Thông qua việc thực hành trả lời các câu hỏi trong phần hướng dẫn và bài tập, chúng ta có thể củng cố kiến thức cơ bản về tác phẩm này.
Đề 1 (trang 14 sgk Ngữ văn 11 Tập 1): Đọc truyện “Tấm Cám”, anh (chị) suy nghĩ gì về cuộc sống đấu tranh giữa cái thiện và cái ác, giữa người tốt và kẻ xấu trong xã hội xưa và nay?
Dàn ý
Mở bài
- Giới thiệu truyện cổ tích “Tấm Cám”
- Nêu vấn đề cần nghị luận: Cuộc sống đấu tranh giữa cái thiện và cái ác, giữa người tốt và kẻ xấu trong xã hội xưa và nay
Thân bài
- Cái thiện và cái ác, người tốt và kẻ xấu trong truyện “Tấm Cám”
- Cái thiện:
- Thể hiện qua nhân vật Tấm: chăm chỉ, hiền lành, nết na, chịu thương chịu khó, luôn giúp đỡ người khác
- Thể hiện qua các yếu tố khác trong truyện: chim sẻ, bông sen, quả thị,…
- Cái ác:
- Thể hiện qua nhân vật Cám: lười biếng, xấu xa, độc ác, luôn ganh ghét, hãm hại Tấm
- Thể hiện qua các yếu tố khác trong truyện: mẹ con Cám, mụ dì ghẻ,…
- Cái thiện:
- Cuộc sống đấu tranh giữa cái thiện và cái ác, giữa người tốt và kẻ xấu trong xã hội xưa và nay
- Xã hội xưa:
- Cái thiện và cái ác, người tốt và kẻ xấu là những khái niệm mang tính ý thức hệ, được thể hiện qua những mâu thuẫn giai cấp, mâu thuẫn xã hội
- Cái thiện thường được gắn với những người lao động nghèo khổ, bị áp bức, bóc lột, còn cái ác thường được gắn với những kẻ thống trị, áp bức, bóc lột
- Xã hội nay:
- Cái thiện và cái ác, người tốt và kẻ xấu là những khái niệm mang tính xã hội, được thể hiện qua những mâu thuẫn trong đời sống xã hội
- Cái thiện thường được gắn với những người có phẩm chất đạo đức tốt đẹp, sống lương thiện, giúp đỡ người khác, còn cái ác thường được gắn với những người có phẩm chất đạo đức xấu xa, sống ích kỷ, tham lam, tàn ác
- Xã hội xưa:
- Ý nghĩa của cuộc đấu tranh giữa cái thiện và cái ác
- Cuộc đấu tranh giữa cái thiện và cái ác là một cuộc đấu tranh tất yếu, không thể tránh khỏi trong xã hội
- Cuộc đấu tranh này sẽ mang lại cho xã hội những điều tốt đẹp, giúp cho xã hội phát triển, văn minh
Kết bài
- Khẳng định lại vấn đề cần nghị luận
- Liên hệ bản thân
Tham khảo
Truyện “Tấm Cám” là một trong những truyện cổ tích nổi tiếng của Việt Nam. Truyện kể về cuộc đời của cô gái mồ côi Tấm và cuộc đấu tranh giữa cô với mụ dì ghẻ và đứa con riêng của mụ là Cám.
Trong truyện, Tấm là hiện thân của cái thiện. Cô là một cô gái xinh đẹp, hiền lành, chịu thương chịu khó. Còn Cám và mụ dì ghẻ là hiện thân của cái ác. Cám là một cô gái lười biếng, đố kị, còn mụ dì ghẻ là một người độc ác, nham hiểm.
Cuộc đấu tranh giữa Tấm và Cám, giữa Tấm và mụ dì ghẻ là cuộc đấu tranh giữa cái thiện và cái ác, giữa người tốt và kẻ xấu. Cuộc đấu tranh này diễn ra cam go, quyết liệt, nhưng cuối cùng cái thiện đã chiến thắng cái ác. Tấm đã vượt qua tất cả những khó khăn, thử thách để giành được hạnh phúc.
Cuộc đấu tranh giữa cái thiện và cái ác, giữa người tốt và kẻ xấu là một cuộc đấu tranh không ngừng nghỉ trong xã hội. Ở bất cứ thời đại nào, cái thiện và cái ác cũng luôn tồn tại song song. Cái thiện là những gì tốt đẹp, tích cực, còn cái ác là những gì xấu xa, tiêu cực. Người tốt là những người sống lương thiện, hiền lành, còn kẻ xấu là những người sống ích kỉ, độc ác.
Trong xã hội xưa, cuộc đấu tranh giữa cái thiện và cái ác thường được thể hiện qua những câu chuyện cổ tích. Những câu chuyện cổ tích thường có kết thúc có hậu, cái thiện luôn chiến thắng cái ác. Điều này thể hiện niềm tin của nhân dân vào sự thắng lợi của cái thiện, của công lý.
Trong xã hội nay, cuộc đấu tranh giữa cái thiện và cái ác vẫn diễn ra gay gắt. Cái ác, tội ác vẫn luôn hiện hữu trong xã hội, gây ra nhiều đau khổ cho con người. Tuy nhiên, cái thiện cũng không ngừng được nhân lên, được bảo vệ và phát huy. Những người tốt, những người sống lương thiện vẫn luôn đấu tranh chống lại cái ác, bảo vệ lẽ phải.
Cuộc đấu tranh giữa cái thiện và cái ác là một cuộc đấu tranh quan trọng, có ý nghĩa to lớn đối với cuộc sống của mỗi người. Mỗi người chúng ta cần phải biết đấu tranh chống lại cái ác, bảo vệ cái thiện, xây dựng một xã hội ngày càng tốt đẹp hơn.
Dưới đây là một số giải pháp để đấu tranh chống lại cái ác, bảo vệ cái thiện:
- Mỗi người cần phải có ý thức đạo đức tốt, sống lương thiện, hiền lành.
- Cần lên án, phê phán những hành vi xấu xa, độc ác.
- Cần tích cực tham gia các hoạt động xã hội, góp phần xây dựng một xã hội văn minh, lành mạnh.
Hy vọng rằng mỗi người chúng ta sẽ luôn đấu tranh chống lại cái ác, bảo vệ cái thiện, xây dựng một xã hội tốt đẹp hơn.
Đề 2 (trang 14 sgk Ngữ văn 11 Tập 1): Bày tỏ ý kiến của mình về vấn đề mà tác giả Thân Nhân Trung đã nêu trong “Bài kí đề danh tiến sĩ khoa Nhâm Tuất, niên hiệu Đại Bảo thứ ba – 1442”
Dàn ý
Mở bài
- Giới thiệu tác giả Thân Nhân Trung và tác phẩm “Bài kí đề danh tiến sĩ khoa Nhâm Tuất, niên hiệu Đại Bảo thứ ba – 1442”.
- Nêu vấn đề mà tác giả Thân Nhân Trung đã nêu trong bài kí.
Thân bài
- Giải thích vấn đề:
- “Hiền tài là nguyên khí quốc gia” nghĩa là người hiền tài là khí chất ban đầu, là nền tảng, là yếu tố quyết định sự thịnh suy của quốc gia.
- Nguyên khí thịnh thì quốc gia mạnh mẽ, phát triển; nguyên khí suy thì quốc gia yếu ớt, suy tàn.
- Bày tỏ ý kiến của bản thân về vấn đề:
- Đồng tình với quan điểm của Thân Nhân Trung.
- Người hiền tài là những người có tài năng, đức độ, có học thức, có trí tuệ, có nhân cách cao đẹp, có khả năng cống hiến cho đất nước.
- Người hiền tài có vai trò quan trọng đối với sự phát triển của đất nước, là nhân tố quyết định sự thịnh suy của quốc gia.
- Người hiền tài có thể lãnh đạo đất nước, đưa đất nước phát triển giàu mạnh, văn minh.
- Người hiền tài có thể giúp đỡ nhân dân, mang lại cuộc sống ấm no, hạnh phúc cho nhân dân.
Kết bài
- Khẳng định lại vấn đề: “Hiền tài là nguyên khí quốc gia” là một quan điểm đúng đắn, sâu sắc.
- Liên hệ thực tế:
- Trong lịch sử, những thời đại có nhiều hiền tài là những thời đại thịnh trị, phát triển.
- Ngày nay, cần quan tâm bồi dưỡng, phát hiện và trọng dụng hiền tài để xây dựng đất nước ngày càng giàu mạnh, văn minh.
Tham khảo
Bài kí đề danh tiến sĩ khoa Nhâm Tuất, niên hiệu Đại Bảo thứ ba – 1442 là một tác phẩm kí nổi tiếng của Thân Nhân Trung, viết vào năm 1484, nhằm ghi lại việc dựng bia Tiến sĩ ở Văn Miếu – Quốc Tử Giám. Trong bài kí, tác giả đã nêu ra một vấn đề quan trọng, đó là vai trò của hiền tài đối với đất nước.
Thân Nhân Trung cho rằng: “Hiền tài là nguyên khí của quốc gia”. Nguyên khí là khí chất, là gốc rễ, là sức mạnh nội sinh của một sự vật, hiện tượng. Như vậy, hiền tài chính là những người có tài đức, có học vấn, có năng lực, có phẩm chất tốt đẹp, là những người có thể góp phần xây dựng đất nước, phát triển xã hội.
Quan điểm của Thân Nhân Trung là hoàn toàn đúng đắn. Trong lịch sử của bất kì quốc gia nào, hiền tài luôn đóng vai trò quan trọng đối với sự phát triển của đất nước. Hiền tài là những người có thể đảm đương những trọng trách trong bộ máy chính quyền, đưa ra những quyết sách quan trọng, góp phần xây dựng đất nước ngày càng giàu mạnh, văn minh. Hiền tài cũng là những người có thể lan tỏa tri thức, văn hóa, góp phần nâng cao dân trí, thúc đẩy sự phát triển của xã hội.
Trong xã hội hiện nay, vai trò của hiền tài càng trở nên quan trọng hơn bao giờ hết. Đất nước ta đang trong quá trình hội nhập quốc tế, cần có những người có tài đức, có tầm nhìn xa trông rộng để đưa đất nước phát triển sánh vai với các cường quốc năm châu.
Để phát huy vai trò của hiền tài, cần có những chính sách thu hút, trọng dụng hiền tài. Nhà nước cần có những chế độ đãi ngộ tốt đối với hiền tài, tạo điều kiện để họ có thể phát huy hết tài năng, trí tuệ của mình. Đồng thời, cần có những biện pháp giáo dục, bồi dưỡng hiền tài, tạo nguồn nhân lực chất lượng cao cho đất nước.
Mỗi người chúng ta cũng cần có ý thức học tập, rèn luyện, phấn đấu trở thành hiền tài, góp phần xây dựng đất nước ngày càng giàu mạnh, văn minh.
Dưới đây là một số giải pháp cụ thể để phát huy vai trò của hiền tài trong xã hội hiện nay:
- Nhà nước cần có những chính sách thu hút, trọng dụng hiền tài, tạo môi trường thuận lợi để hiền tài phát huy tài năng, trí tuệ của mình.
- Cần có những biện pháp giáo dục, bồi dưỡng hiền tài, tạo nguồn nhân lực chất lượng cao cho đất nước.
- Mỗi người cần có ý thức học tập, rèn luyện, phấn đấu trở thành hiền tài, góp phần xây dựng đất nước ngày càng giàu mạnh, văn minh.
Có thể nói, quan điểm của Thân Nhân Trung về vai trò của hiền tài đối với đất nước là một quan điểm đúng đắn và có giá trị sâu sắc. Quan điểm này cần được tiếp tục phát huy trong xã hội hiện nay, nhằm xây dựng một đất nước giàu mạnh, văn minh.
Đề 3 (trang 14 sgk Ngữ văn 11 Tập 1): Viết bài nghị luận bày tỏ ý kiến của mình về phương châm: “học đi đôi với hành.
Dàn ý
Mở bài
- Giới thiệu vấn đề cần nghị luận: phương châm học đi đôi với hành
- Nêu ý nghĩa của phương châm này
Thân bài
- Giải thích phương châm học đi đôi với hành
- Học: là quá trình tiếp thu, lĩnh hội kiến thức, kĩ năng, kinh nghiệm từ sách vở, thầy cô, cha mẹ,…
- Hành: là quá trình vận dụng kiến thức, kĩ năng đã học vào thực tiễn
- Bàn luận về ý nghĩa của phương châm học đi đôi với hành
- Học đi đôi với hành giúp chúng ta nắm vững kiến thức, kĩ năng đã học
- Học đi đôi với hành giúp chúng ta rèn luyện các kĩ năng thực hành, ứng dụng kiến thức vào thực tiễn
- Học đi đôi với hành giúp chúng ta phát triển toàn diện cả về tri thức và kĩ năng
- Dẫn chứng minh họa
- Trong lịch sử, có rất nhiều tấm gương thành công nhờ học đi đôi với hành, như: Bác Hồ, Lênin, Einstein,…
- Trong cuộc sống hiện đại, học đi đôi với hành cũng là một yêu cầu quan trọng đối với mỗi người
Kết bài
- Khẳng định lại ý nghĩa của phương châm học đi đôi với hành
- Liên hệ bản thân
Tham khảo
Bài văn nghị luận về phương châm “học đi đôi với hành”
Trong cuộc sống, con người luôn phải học hỏi để tích lũy kiến thức, nâng cao tri thức, hoàn thiện bản thân. Phương châm “học đi đôi với hành” là một phương châm đúng đắn, cần được thực hiện trong học tập và trong cuộc sống.
“Học” là quá trình tiếp thu, lĩnh hội tri thức, kiến thức từ sách vở, thầy cô, từ thực tế cuộc sống. “Hành” là quá trình vận dụng, thực hành những kiến thức, tri thức đã học vào thực tế. Như vậy, “học đi đôi với hành” có nghĩa là học tập phải gắn liền với thực hành, lý luận phải đi đôi với thực tiễn.
Phương châm này có ý nghĩa quan trọng đối với việc học tập và rèn luyện của mỗi người. Khi học đi đôi với hành, người học sẽ có cơ hội để:
- Hiểu rõ, nắm vững kiến thức, tri thức đã học.
- Phát triển năng lực tư duy, vận dụng kiến thức vào thực tế.
- Hình thành kỹ năng, kĩ xảo cần thiết.
- Nâng cao trình độ, khả năng làm việc.
Ngoài ra, phương châm này còn góp phần hình thành nhân cách, phẩm chất tốt đẹp cho mỗi người. Khi biết vận dụng kiến thức vào thực tế, người học sẽ có cơ hội để cống hiến cho xã hội, góp phần xây dựng đất nước ngày càng giàu mạnh, văn minh.
Trong thực tế, có rất nhiều tấm gương sáng đã thực hiện tốt phương châm “học đi đôi với hành”. Bác Hồ là một tấm gương tiêu biểu. Bác đã học tập, rèn luyện không ngừng, từ những kiến thức cơ bản đến những kiến thức cao siêu. Đồng thời, Bác cũng luôn vận dụng những kiến thức đã học vào thực tế, góp phần giải phóng dân tộc, xây dựng đất nước.
Ngày nay, phương châm “học đi đôi với hành” càng trở nên quan trọng hơn bao giờ hết. Đất nước ta đang trong quá trình hội nhập quốc tế, cần có những con người có kiến thức, năng lực, có khả năng đáp ứng yêu cầu của thời đại. Do đó, mỗi người cần xác định rõ mục tiêu học tập, tích cực học tập, rèn luyện, vận dụng kiến thức vào thực tế, góp phần xây dựng đất nước ngày càng giàu mạnh, văn minh.
Để thực hiện tốt phương châm “học đi đôi với hành”, mỗi người cần:
- Xác định rõ mục tiêu học tập, xác định những kiến thức, kỹ năng cần đạt được.
- Lựa chọn phương pháp học tập phù hợp, kết hợp giữa học lý thuyết và thực hành.
- Tích cực tham gia các hoạt động ngoại khóa, các hoạt động thực tiễn.
Mỗi người hãy cùng nhau thực hiện tốt phương châm “học đi đôi với hành” để góp phần xây dựng một thế hệ trẻ có tri thức, có năng lực, có khả năng đáp ứng yêu cầu của thời đại.
Với những hướng dẫn soạn bài Viết bài làm văn số 1: Nghị luận xã hội chi tiết như trên. Hy vọng sẽ giúp các bạn nắm được những ý chính của tác phẩm này. Chúc các bạn có những bài soạn thật tốt, để thuận tiện trong quá trình tiếp thu bài giảng.