Soạn bài Về luân lí xã hội ở nước ta

Hướng dẫn Soạn bài Về luân lí xã hội ở nước ta chi tiết, đầy đủ nhất. Thông qua việc thực hành trả lời các câu hỏi trong phần hướng dẫn và bài tập, chúng ta có thể củng cố kiến thức cơ bản về tác phẩm này.

Phần đọc – hiểu văn bản

Câu 1 (trang 88 sgk Ngữ văn lớp 11 Tập 2):

Cấu trúc đoạn trích “Về luân lí xã hội ở nước ta” của Phan Châu Trinh gồm 3 phần:

Phần 1 (từ đầu đến “nơi ta đang ở”): Nêu vấn đề: luân lí xã hội ở nước ta.

Ý chính:

  • Luân lí xã hội ở nước ta là một vấn đề quan trọng, cần được quan tâm.
  • Luân lí xã hội ở nước ta đang có những hạn chế, cần được chấn chỉnh.

Phần 2 (từ “Nước ta tuyệt nhiên không ai biết đến luân lí xã hội” đến “vậy là không ai biết đến luân lí”): Phân tích nguyên nhân của những hạn chế trong luân lí xã hội ở nước ta.

Ý chính:

  • Nguyên nhân của những hạn chế trong luân lí xã hội ở nước ta là do:
    • Chế độ phong kiến đã kìm hãm sự phát triển của xã hội, dẫn đến sự trì trệ, lạc hậu về tư tưởng, đạo đức.
    • Nền giáo dục Nho giáo đã đề cao chữ “trung” và “hiếu” mà coi nhẹ các mối quan hệ xã hội khác, dẫn đến tình trạng “nước mất nhà tan”.

Phần 3 (từ “Nhưng không phải thế đâu” đến hết): Khẳng định vai trò của luân lí xã hội và đưa ra giải pháp chấn chỉnh luân lí xã hội ở nước ta.

Ý chính:

  • Luân lí xã hội là nền tảng của xã hội, cần được quan tâm, phát huy.
  • Để chấn chỉnh luân lí xã hội ở nước ta, cần thực hiện những giải pháp sau:
    • Đổi mới tư duy, nhận thức về luân lí xã hội.
    • Xây dựng và thực hiện giáo dục luân lí xã hội trong nhà trường và xã hội.

Mối liên hệ giữa các phần:

  • Phần 1 nêu vấn đề, phần 2 phân tích nguyên nhân, phần 3 khẳng định vai trò và đưa ra giải pháp. Như vậy, các phần có mối liên hệ chặt chẽ với nhau, bổ sung cho nhau, tạo nên một chỉnh thể thống nhất.

Chủ đề tư tưởng của đoạn trích:

  • Khẳng định vai trò quan trọng của luân lí xã hội.
  • Phê phán những hạn chế trong luân lí xã hội ở nước ta.
  • Đề xuất những giải pháp chấn chỉnh luân lí xã hội ở nước ta.

Đoạn trích “Về luân lí xã hội ở nước ta” của Phan Châu Trinh là một bài viết có giá trị to lớn. Bài viết đã góp phần nâng cao nhận thức của người dân về tầm quan trọng của luân lí xã hội, đồng thời đề xuất những giải pháp thiết thực để chấn chỉnh luân lí xã hội ở nước ta.

Câu 2 (trang 88 sgk Ngữ văn lớp 11 Tập 2):

Trong phần 1 của đoạn trích “Về luân lí xã hội ở nước ta”, tác giả Phan Châu Trinh đã chọn cách vào đề rất khéo léo, tránh sự hiểu lầm của người nghe về khái niệm luân lý xã hội.

Trước hết, tác giả đã nêu lên một vấn đề khái quát: “Luân lí xã hội ở nước ta”. Vấn đề này được trình bày một cách ngắn gọn, súc tích, dễ hiểu, không gây khó khăn cho người nghe.

Tiếp theo, tác giả đã đưa ra một lập luận bất ngờ, gây sốc: “Nước ta tuyệt nhiên không ai biết đến luân lí xã hội”. Lập luận này đã khiến người nghe phải chú ý, thắc mắc, muốn tìm hiểu thêm về vấn đề này.

Cuối cùng, tác giả đã giải thích rõ khái niệm luân lý xã hội: “Luân lí xã hội là những điều thiện, điều phải, điều tốt đẹp mà con người cần phải có và cần phải thực hiện trong xã hội”. Giải thích này đã giúp người nghe hiểu rõ hơn về khái niệm luân lý xã hội, tránh những hiểu lầm sai lệch.

Như vậy, cách vào đề của tác giả Phan Châu Trinh trong phần 1 của đoạn trích “Về luân lí xã hội ở nước ta” đã đạt được những hiệu quả sau:

  • Thu hút sự chú ý của người nghe.
  • Tạo tiền đề cho việc triển khai nội dung của đoạn trích.
  • Tránh sự hiểu lầm của người nghe về khái niệm luân lý xã hội.

Câu 3 (trang 88 sgk Ngữ văn lớp 11 Tập 2):

Trong phần 2 của đoạn trích “Về luân lí xã hội ở nước ta”, ở giai đoạn đầu, tác giả Phan Châu Trinh đã so sánh bên châu Âu biện pháp với bên ta về ý thức, nghĩa vụ của mỗi người trong nước.

Bên châu Âu, người ta ý thức sâu sắc về nghĩa vụ, mối quan hệ giữa người với người. Họ có tinh thần dân chủ, tiến bộ, quyết đấu tranh tới cùng vì quyền lợi của con người.

Bên ta, người ta không biết đến luân lí xã hội, chỉ biết “ai tai nấy”, “ai chết mặc ai”, mặc kệ tai nạn của người khác, bất công cũng cho qua.

Sự so sánh này nhằm làm nổi bật những hạn chế trong luân lí xã hội ở nước ta, đồng thời khẳng định vai trò quan trọng của luân lí xã hội trong đời sống xã hội.

Cụ thể, tác giả đã so sánh hai nước qua những điểm sau:

  • Về ý thức:
    • Bên châu Âu, người ta có ý thức sâu sắc về nghĩa vụ, mối quan hệ giữa người với người. Họ biết mình phải làm gì cho bản thân, cho gia đình, cho xã hội.
    • Bên ta, người ta không biết đến luân lí xã hội, chỉ biết lo cho bản thân, không quan tâm đến người khác.
  • Về nghĩa vụ:
    • Bên châu Âu, người ta có tinh thần dân chủ, tiến bộ, quyết đấu tranh tới cùng vì quyền lợi của con người.
    • Bên ta, người ta không có tinh thần dân chủ, tiến bộ, dễ dàng bị áp bức, bóc lột.
  • Về thái độ:
    • Bên châu Âu, người ta có thái độ tích cực, chủ động, sẵn sàng đấu tranh cho quyền lợi của mình.
    • Bên ta, người ta có thái độ tiêu cực, thụ động, dễ dàng chấp nhận số phận.

Thông qua những so sánh trên, tác giả Phan Châu Trinh đã lên án những hạn chế trong luân lí xã hội ở nước ta, đồng thời khẳng định vai trò quan trọng của luân lí xã hội trong đời sống xã hội.

Câu 4 (trang 88 sgk Ngữ văn lớp 11 Tập 2):

Ở các đoạn sau của phần 2, tác giả Phan Châu Trinh đã chỉ ra nguyên nhân của tình trạng dân không biết đoàn thể, không chọn công ích là do chế độ vua quan chuyên chế.

Cụ thể, tác giả đã nêu lên những nguyên nhân sau:

  • Chế độ vua quan chuyên chế đã kìm hãm sự phát triển của xã hội, dẫn đến sự trì trệ, lạc hậu về tư tưởng, đạo đức.

Tác giả đã chỉ ra rằng, chế độ vua quan chuyên chế đã áp đặt một nền giáo dục Nho giáo lạc hậu, đề cao chữ “trung” và “hiếu” mà coi nhẹ các mối quan hệ xã hội khác. Điều này đã khiến cho người dân chỉ biết lo cho bản thân, cho gia đình, mà không quan tâm đến người khác, đến xã hội.

  • Nền giáo dục Nho giáo đã đề cao chữ “trung” và “hiếu” mà coi nhẹ các mối quan hệ xã hội khác, dẫn đến tình trạng “nước mất nhà tan”.

Tác giả đã chỉ ra rằng, chữ “trung” và “hiếu” là những phẩm chất tốt đẹp, nhưng nếu được đề cao một cách thái quá, sẽ dẫn đến tình trạng người dân chỉ biết trung thành với vua, hiếu kính với cha mẹ mà không biết đấu tranh cho quyền lợi của mình, cho lợi ích của dân tộc. Điều này đã khiến cho đất nước dễ dàng bị xâm lược, nhân dân chịu cảnh lầm than.

Thông qua việc chỉ ra những nguyên nhân này, tác giả Phan Châu Trinh đã lên án chế độ vua quan chuyên chế đã kìm hãm sự phát triển của xã hội, dẫn đến sự trì trệ, lạc hậu về tư tưởng, đạo đức. Đồng thời, tác giả cũng lên án nền giáo dục Nho giáo lạc hậu đã đề cao chữ “trung” và “hiếu” mà coi nhẹ các mối quan hệ xã hội khác, dẫn đến tình trạng “nước mất nhà tan”.

Ngoài ra, tác giả còn thể hiện sự phê phán chế độ vua quan chuyên chế qua những câu văn như:

“Nước ta, vì độc tài, vì cường quyền, vì bất công, vì áp bức, vì bóc lột, cho nên dân không biết đoàn thể, không chọn công ích.”

“Độc tài, cường quyền, bất công, áp bức, bóc lột, đó là những nguyên nhân làm cho dân ta không biết đoàn thể, không chọn công ích.”

Những câu văn này đã thể hiện rõ thái độ của tác giả đối với chế độ vua quan chuyên chế. Tác giả đã lên án chế độ này một cách gay gắt, cho rằng chế độ này là nguyên nhân chính dẫn đến tình trạng dân không biết đoàn thể, không chọn công ích.

Câu 5 (trang 88 sgk Ngữ văn lớp 11 Tập 2):

Trong đoạn trích “Về luân lí xã hội ở nước ta”, tác giả Phan Châu Trinh đã kết hợp nhuần nhuyễn giữa yếu tố biểu cảm và yếu tố nghị luận. Sự kết hợp này góp phần làm cho đoạn trích thêm sinh động, hấp dẫn, đồng thời thể hiện rõ tình cảm, thái độ của tác giả đối với vấn đề đang được đề cập.

Yếu tố biểu cảm trong đoạn trích được thể hiện qua những câu văn cảm thán, câu hỏi tu từ, hình ảnh ví von,… Những câu văn này đã thể hiện rõ cảm xúc, suy nghĩ của tác giả trước tình trạng luân lí xã hội ở nước ta.

Ví dụ:

“Thương hại thay! Dân ta vì thiếu luân lí xã hội, cho nên trở nên tệ hại như thế.”

“Nước ta tuyệt nhiên không ai biết đến luân lí xã hội, nghĩa là không ai biết đến nghĩa vụ của mình đối với người khác, đối với xã hội.”

“Dân ta chỉ biết “ai tai nấy”, “ai chết mặc ai”, mặc kệ tai nạn của người khác, bất công cũng cho qua.”

Yếu tố nghị luận trong đoạn trích được thể hiện qua những luận điểm, luận cứ, lập luận chặt chẽ, logic. Những luận điểm, luận cứ này đã làm rõ những hạn chế trong luân lí xã hội ở nước ta, đồng thời khẳng định vai trò quan trọng của luân lí xã hội trong đời sống xã hội.

Ví dụ:

“Luân lí xã hội là những điều thiện, điều phải, điều tốt đẹp mà con người cần phải có và cần phải thực hiện trong xã hội.”

“Bên châu Âu, người ta ý thức sâu sắc về nghĩa vụ, mối quan hệ giữa người với người. Họ có tinh thần dân chủ, tiến bộ, quyết đấu tranh tới cùng vì quyền lợi của con người.”

“Nước ta, vì độc tài, vì cường quyền, vì bất công, vì áp bức, vì bóc lột, cho nên dân không biết đoàn thể, không chọn công ích.”

Sự kết hợp giữa yếu tố biểu cảm và yếu tố nghị luận trong đoạn trích đã tạo nên hiệu quả nghệ thuật cao. Nó giúp cho đoạn trích thêm sinh động, hấp dẫn, đồng thời thể hiện rõ tình cảm, thái độ của tác giả đối với vấn đề đang được đề cập.

Phần luyện tập

Câu 1 (trang 88 sgk Ngữ văn lớp 11 Tập 2):

Hoàn cảnh sáng tác của đoạn trích “Về luân lí xã hội ở nước ta” là vào năm 1925, khi phong trào dân tộc dân chủ ở Việt Nam bắt đầu nổ ra và lan rộng. Tác giả Phan Châu Trinh là một trong những nhà yêu nước tiên phong của phong trào này. Ông đã từng trải qua nhiều năm bôn ba tìm đường cứu nước, và đã có thời gian sống ở châu Âu. Chính những trải nghiệm của bản thân đã giúp tác giả nhận ra những hạn chế trong luân lí xã hội ở nước ta, và mong muốn khơi dậy tinh thần đoàn kết, yêu nước của nhân dân.

Tâm trạng của tác giả khi kết đoạn trích là một tâm trạng vừa đau xót, vừa căm phẫn, vừa hy vọng.

  • Đau xót và căm phẫn trước tình trạng luân lí xã hội ở nước ta. Tác giả đã dùng những từ ngữ, hình ảnh rất mạnh mẽ để diễn tả tình trạng này như: “tuyệt nhiên không ai biết đến luân lí xã hội”, “ai tai nấy”, “ai chết mặc ai”, “mặc kệ tai nạn của người khác, bất công cũng cho qua”. Những từ ngữ, hình ảnh này đã thể hiện rõ thái độ lên án của tác giả đối với tình trạng này.
  • Hy vọng vào tương lai của đất nước. Tác giả đã khẳng định vai trò quan trọng của luân lí xã hội trong đời sống xã hội, và đề xuất những giải pháp để chấn chỉnh luân lí xã hội ở nước ta. Những giải pháp này thể hiện tinh thần yêu nước, khao khát giải phóng dân tộc của tác giả.

Tâm trạng của tác giả khi kết đoạn trích đã thể hiện rõ tư tưởng và tình cảm của ông đối với vấn đề luân lí xã hội ở nước ta. Ông đã nhìn nhận vấn đề một cách khách quan, toàn diện, đồng thời đề xuất những giải pháp thiết thực để giải quyết vấn đề này.

Câu 2 (trang 88 sgk Ngữ văn lớp 11 Tập 2):

Tấm lòng của Phan Châu Trinh

Tấm lòng của Phan Châu Trinh được thể hiện rõ qua đoạn trích “Về luân lí xã hội ở nước ta”. Ông là một nhà yêu nước có tấm lòng yêu nước sâu sắc, luôn mong muốn đất nước được giàu mạnh, dân tộc được độc lập. Ông cũng là một nhà tư tưởng tiến bộ, luôn trăn trở về những hạn chế của xã hội nước nhà.

Qua đoạn trích, ta có thể cảm nhận được tấm lòng thương dân, xót xa trước tình trạng luân lí xã hội ở nước ta của Phan Châu Trinh. Ông đã dùng những từ ngữ, hình ảnh rất mạnh mẽ để diễn tả tình trạng này như: “tuyệt nhiên không ai biết đến luân lí xã hội”, “ai tai nấy”, “ai chết mặc ai”, “mặc kệ tai nạn của người khác, bất công cũng cho qua”. Những từ ngữ, hình ảnh này đã thể hiện rõ thái độ lên án của tác giả đối với tình trạng này.

Tấm lòng thương dân của Phan Châu Trinh cũng thể hiện qua việc ông đề xuất những giải pháp để chấn chỉnh luân lí xã hội ở nước ta. Ông cho rằng, cần phải đổi mới tư duy, nhận thức về luân lí xã hội; cần xây dựng và thực hiện giáo dục luân lí xã hội trong nhà trường và xã hội. Những giải pháp này thể hiện mong muốn của ông về một xã hội tốt đẹp, nơi mọi người đoàn kết, yêu thương, giúp đỡ lẫn nhau.

Tầm nhìn của Phan Châu Trinh

Tầm nhìn của Phan Châu Trinh được thể hiện qua cách ông nhìn nhận vấn đề luân lí xã hội ở nước ta một cách khách quan, toàn diện. Ông đã chỉ ra những nguyên nhân của những hạn chế trong luân lí xã hội ở nước ta, đồng thời khẳng định vai trò quan trọng của luân lí xã hội trong đời sống xã hội.

Tầm nhìn của Phan Châu Trinh cũng được thể hiện qua việc ông đề xuất những giải pháp thiết thực để chấn chỉnh luân lí xã hội ở nước ta. Những giải pháp này không chỉ phù hợp với thực tiễn nước ta mà còn có tính khả thi cao.

Tóm lại, qua đoạn trích “Về luân lí xã hội ở nước ta”, ta có thể cảm nhận được tấm lòng yêu nước, thương dân sâu sắc, cùng với tầm nhìn xa trông rộng của Phan Châu Trinh. Ông là một nhà yêu nước, nhà tư tưởng tiến bộ, luôn mong muốn đất nước được giàu mạnh, dân tộc được độc lập, đồng thời xây dựng một xã hội tốt đẹp, nơi mọi người đoàn kết, yêu thương, giúp đỡ lẫn nhau.

Câu 3 (trang 88 sgk Ngữ văn lớp 11 Tập 2):

Chủ trương gây dựng nền luân lý xã hội ở Việt Nam của Phan Châu Trinh đến nay vẫn còn có ý nghĩa thời sự. Điều này được thể hiện qua những lý do sau:

  • Luân lý xã hội là một yếu tố quan trọng trong đời sống xã hội. Nó là nền tảng đạo đức, là cơ sở để xây dựng một xã hội tốt đẹp, nơi mọi người đoàn kết, yêu thương, giúp đỡ lẫn nhau.
  • Thực trạng luân lý xã hội ở Việt Nam hiện nay vẫn còn nhiều hạn chế. Một số người vẫn còn thiếu ý thức trách nhiệm, ích kỷ, chỉ biết lo cho bản thân, không quan tâm đến người khác, đến xã hội. Điều này đã dẫn đến những hiện tượng tiêu cực như tham nhũng, lãng phí, vô cảm,…
  • Xã hội Việt Nam đang trong quá trình phát triển, hội nhập với thế giới. Điều này đòi hỏi người dân cần có một nền luân lý xã hội vững vàng để có thể thích ứng với những thay đổi của thời đại.

Vì vậy, chủ trương gây dựng nền luân lý xã hội ở Việt Nam của Phan Châu Trinh vẫn còn có ý nghĩa thời sự. Để thực hiện chủ trương này, cần thực hiện những giải pháp sau:

  • Tăng cường giáo dục luân lý xã hội trong gia đình, nhà trường và xã hội.
  • Tạo môi trường sống lành mạnh, văn minh, nhân ái.
  • Xây dựng và thực thi pháp luật nghiêm minh.
  • Đẩy mạnh tuyên truyền, vận động, nâng cao nhận thức của người dân về vai trò của luân lý xã hội.

Nếu thực hiện tốt những giải pháp này, chúng ta sẽ góp phần xây dựng một xã hội tốt đẹp, văn minh, giàu mạnh.

Với những hướng dẫn Soạn bài Về luân lí xã hội ở nước ta chi tiết như trên. Hy vọng sẽ giúp các bạn nắm được những ý chính của tác phẩm này. Chúc các bạn có những bài soạn thật tốt, để thuận tiện trong quá trình tiếp thu bài giảng.