Soạn bài Thực hành tiếng Việt trang 28

Hướng dẫn soạn bài Thực hành tiếng Việt trang 28 Ngữ văn 9 tập 2 Kết nối tri thức chi tiết, đầy đủ nhất. Thông qua việc thực hành trả lời các câu hỏi trong phần hướng dẫn và bài tập, chúng ta có thể củng cố kiến thức cơ bản về bài học này.

Câu hỏi 1: (SGK Ngữ văn 9 Tập 2 – Trang 28)

Xác định quan hệ ý nghĩa giữa các vế trong những câu ghép dưới đây. Có thể tách mỗi vế của câu ghép thành một câu đơn được không? Vì sao?

a. Chẳng những thái ấp của ta không còn, mà bổng lộc các ngươi cũng mất; chẳng những gia quyến của ta bị tan, mà vợ con các ngươi cũng khốn; chẳng những xã tắc tổ tông ta bị giày xéo, mà phần mộ cha mẹ các ngươi cũng bị quật lên; chẳng những thân ta kiếp này chịu nhục, rồi đến trăm năm sau, tiếng dơ khôn rửa, tên xấu còn lưu, mà đến gia thanh các ngươi cũng không khỏi mang tiếng là tướng bại trận.

(Trần Quốc Tuấn, Hịch tướng sĩ)

b. Nếu con chưa đi, cụ Nghị chưa giao tiền cho, u chưa có tiền nộp sưu thì không khéo thầy con sẽ chết ở đình, chứ không sống được.

(Ngô Tất Tố, Tắt đèn)

Gợi ý trả lời:

Soạn bài Thực hành tiếng Việt trang 28 - 2

a.

  • Các vế câu trong đoạn này có quan hệ liệt kê và tăng cấp, nhấn mạnh sự liên kết giữa các sự việc và tình trạng tồi tệ gia tăng.
  • Không nên tách các vế thành câu đơn vì điều này sẽ làm giảm đi sự liên kết chặt chẽ và sức mạnh của lập luận trong câu.

b.

  • Các vế câu có quan hệ giả thiết – hệ quả, trong đó một sự việc dẫn đến một chuỗi các sự việc khác theo logic nguyên nhân – kết quả.
  • Không nên tách các vế thành câu đơn vì sẽ làm mất đi tính liên tục và sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các sự việc được trình bày.

Câu hỏi 2: (SGK Ngữ văn 9 Tập 2 – Trang 28)

Hãy chuyển đổi các câu đơn trong mỗi trường hợp sau thành câu ghép và nhận xét sự khác biệt về ý nghĩa giữa các câu đơn ban đầu và câu ghép có được sau khi chuyển đổi.

a. Có một sự thật là trong 10 năm tôi là phóng viên cho tòa soạn tuần báo “Time” và trước đó làm cho hãng Roi-tơ. Một sự thật khác nữa là tôi gia nhập phong trào cách mạng từ năm 1945 và là thành viên của họ từ đó với các chức vụ khác nhau. 

(Nguyễn Thị Ngọc Hải, Phạm Xuân Ẩn – tên người như cuộc đời)

b. Rõ ràng Phạm Xuân Ẩn có cuộc đời của nhân vật tiểu thuyết. Nhưng các nhà báo Việt Nam cũng như nhà báo nước ngoài mới chỉ có được “vài chớp đèn flash” nắm bắt những nét thoáng qua nào đó của cuộc đời ông theo một số sự kiện lịch sử lớn lao…

(Nguyễn Thị Ngọc Hải, Phạm Xuân Ẩn – tên người như cuộc đời)

c. Tôi không thể đủ điều kiện viết về ông theo cách chuẩn xác của những điệp vụ. Càng không muốn liệt kê theo các bản khai lí lịch đơn thuần. 

(Nguyễn Thị Ngọc Hải, Phạm Xuân Ẩn-tên người như cuộc đời).

Gợi ý trả lời:

Soạn bài Thực hành tiếng Việt trang 28 - 3

a.

  • Chuyển đổi câu: Có một sự thật là trong 10 năm tôi là phóng viên cho tòa soạn tuần báo “Time” và trước đó làm cho hãng Roi-tơ, và một sự thật khác nữa là tôi gia nhập phong trào cách mạng từ năm 1945 và là thành viên của họ từ đó với các chức vụ khác nhau.
  • So sánh: Việc diễn đạt bằng câu ghép liên kết hai sự thật lại với nhau, nhấn mạnh mối liên hệ giữa sự nghiệp báo chí và con đường cách mạng của Phạm Xuân Ẩn. Cách diễn đạt này tạo ra sự liên tục trong cuộc đời của ông, trong khi cách diễn đạt bằng các câu đơn tách biệt hai thông tin, làm cho chúng có vẻ như hai sự kiện độc lập.

b.

  • Chuyển đổi câu: Rõ ràng Phạm Xuân Ẩn có cuộc đời của nhân vật tiểu thuyết, nhưng các nhà báo Việt Nam cũng như nhà báo nước ngoài mới chỉ có được “vài chớp đèn flash” để nắm bắt những nét thoáng qua nào đó của cuộc đời ông theo một số sự kiện lịch sử lớn lao.
  • So sánh: Diễn đạt bằng câu ghép làm nổi bật sự đối lập giữa sự phong phú của cuộc đời Phạm Xuân Ẩn và những gì mà các nhà báo có thể nắm bắt được. Điều này tạo ra một sự tương phản rõ rệt, trong khi các câu đơn chỉ đơn giản là liệt kê các thông tin mà không nhấn mạnh được sự đối lập này.

c.

  • Chuyển đổi câu: Tôi không thể đủ điều kiện viết về ông theo cách chuẩn xác của những điệp vụ, và càng không muốn liệt kê theo các bản khai lí lịch đơn thuần.
  • So sánh: Câu ghép nhấn mạnh hai lý do mà tác giả đưa ra khi viết về Phạm Xuân Ẩn, tạo nên một lập luận logic và chặt chẽ. Cách diễn đạt này giúp người đọc dễ dàng hiểu rõ hơn quan điểm của tác giả, trong khi các câu đơn có thể làm mất đi sự liên kết giữa hai lý do này.

Câu hỏi 3: (SGK Ngữ văn 9 Tập 2 – Trang 29)

Các đoạn trích sau vừa có câu đơn vừa có câu ghép. Hãy chỉ ra sự phù hợp giữa kiểu cấu trúc câu và ý nghĩa cần biểu đạt của mỗi câu.

a. Chúng ta muốn hoà bình, chúng ta phải nhân nhượng. Nhưng chúng ta càng nhân nhượng, thực dân Pháp càng lấn tới, vì chúng quyết tâm cướp nước ta lần nữa!

Không! Chúng ta thà hi sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ.

(Hồ Chí Minh, Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến)

b. Vì sao sau khi đất nước giải phóng, cả nước và thế giới biết rõ ông là tình báo, vậy mà người Mỹ trong giới báo chí hoạt động cùng thời với ông nay trở lại Việt Nam vẫn đem lòng tin tưởng và kính trọng ông? Đó là một nhân cách, một tài năng. Đời ông là một câu trả lời lớn cho nhiều câu hỏi vẫn làm đau đầu nhiều người bạn Mỹ của ông.

(Nguyễn Thị Ngọc Hải, Phạm Xuân Ẩn – tên người như cuộc đời)

Gợi ý trả lời:

Soạn bài Thực hành tiếng Việt trang 28 - 4

a.

  • Câu 1 là câu ghép gồm hai vế, thể hiện sự liên hệ giữa mong muốn của nhân dân Việt Nam và hành động cần thiết để bảo vệ hòa bình. Cấu trúc câu ghép này nhấn mạnh rằng mong muốn hòa bình phải đi kèm với sự nhân nhượng.
  • Câu 2 cũng là câu ghép, trong đó vế đầu nêu lên thực tế là sự nhân nhượng càng nhiều, thì vế sau chỉ ra kết quả là thực dân Pháp càng lấn tới. Câu ghép này nhấn mạnh mối quan hệ nguyên nhân – kết quả, làm rõ sự leo thang của tình hình khi thực dân Pháp quyết tâm xâm chiếm nước ta.
  • Câu 3 là một câu đặc biệt, thể hiện sự quyết tâm dứt khoát của nhân dân Việt Nam trong việc bảo vệ đất nước.
  • Câu 4 là câu đơn, khẳng định mạnh mẽ quyết tâm không chịu làm nô lệ, thể hiện rõ ràng tinh thần quyết tâm chiến đấu của nhân dân.

b.

  • Câu 1 là câu ghép có quan hệ đối lập, nêu lên sự mâu thuẫn giữa việc thế giới biết ông là tình báo và việc người Mỹ vẫn tin tưởng và kính trọng ông. Sự đối lập này tạo nên một câu hỏi lớn về nhân cách và tài năng của Phạm Xuân Ẩn.
  • Câu 2 và câu 3 là các câu đơn, dùng để nhấn mạnh và ca ngợi nhân cách và tài năng của Phạm Xuân Ẩn. Cách sử dụng câu đơn giúp làm nổi bật sự đánh giá cao về con người ông, qua đó khẳng định giá trị lớn lao của cuộc đời ông.

Câu hỏi 4: (SGK Ngữ văn 9 Tập 2 – Trang 29)

Viết đoạn văn (khoảng 5 – 7 câu) trình bày cảm nghĩ của em về nhà tình báo Phạm Xuân Ẩn sau khi đọc văn bản Phạm Xuân Ẩn – tên người như cuộc đời, trong đoạn văn có ít nhất một câu ghép.

Gợi ý trả lời:

Soạn bài Thực hành tiếng Việt trang 28 - 5

Sau khi đọc văn bản “Phạm Xuân Ẩn – tên người như cuộc đời,” em cảm thấy rất kính trọng và ngưỡng mộ trước cuộc đời và sự nghiệp của ông. Phạm Xuân Ẩn là một nhân vật vĩ đại, người đã khéo léo che giấu thân phận để hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ tình báo trong lòng địch. Ông không chỉ là một nhà báo giỏi mà còn là một điệp viên tài ba, luôn giữ vững tinh thần yêu nước, sẵn sàng hy sinh vì Tổ quốc. Việc giải mã cuộc đời ông giúp chúng ta hiểu thêm về sự hy sinh thầm lặng của những người đã góp phần vào sự nghiệp giải phóng dân tộc. Qua đó, ông trở thành tấm gương sáng để thế hệ trẻ noi theo và tự hào về truyền thống anh hùng của dân tộc Việt Nam.

  • Câu ghép: Phạm Xuân Ẩn là một nhân vật vĩ đại, người đã khéo léo che giấu thân phận để hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ tình báo trong lòng địch.

Hướng dẫn soạn bài Thực hành tiếng Việt trang 28 Ngữ văn 9 tập 2 Kết nối tri thức chi tiết, đầy đủ nhất. Thông qua việc thực hành trả lời các câu hỏi trong phần hướng dẫn và bài tập, chúng ta có thể củng cố kiến thức cơ bản về bài học này.