Soạn bài thơ Ông Đồ – ngữ văn 7 tập 1 – sách Cánh Diều

Hướng dẫn soạn bài thơ Ông Đồ – ngữ văn 7 tập 1 – sách Cánh Diều chi tiết, đầy đủ nhất. Thông qua việc thực hành trả lời các câu hỏi trong phần hướng dẫn và bài tập, chúng ta có thể củng cố kiến thức cơ bản về tác phẩm thơ này.

1. Chuẩn bị.

Yêu cầu (trang 46 Sgk Ngữ văn lớp 7 Tập 1):

– Ngoài bài thơ Đêm nay Bác không ngủ, em còn biết bài thơ “Mùa xuân nho nhỏ” của nhà thơ Thanh Hải.

– Vũ Đình Liên (1913-1996), quê ở Hải Dương. Ông là một trong những nhà thơ lớp đầu tiên của phong trào Thơ mới và là nhà giáo nhân dân Việt Nam. Thơ ông thường mang nặng lòng thương người và niềm hoài cổ. 

– Chữ Nho và nghệ thuật viết chữ Nho (thư pháp): Chữ Nho có gốc là chữ Hán nhưng lại được phát âm bằng tiếng Việt. Nhờ mượn chữ Hán về dùng mà chúng ta bổ sung thêm rất nhiều kho từ cho tiếng Việt. Thư pháp có nghĩa ban đầu là phương pháp viết chữ chuẩn xác, cho đẹp, nhưng cùng với thời gian, thư pháp đã vượt ra khỏi ý nghĩa ban đầu và trở thành nghệ thuật viết chữ cách điệu, tạo ra những hình tượng nghệ thuật thể hiện ý tứ sâu xa của tác giả. Thư Pháp vốn xuất thân từ Trung Hoa và được du nhập vào Việt Nam từ những năm đầu Công nguyên thời nhà Hán.

2. Đọc hiểu.

 Trả lời câu hỏi giữa bài: 

Câu 1 (trang 47 sgk Ngữ văn lớp 7 Tập 1):

– Vần: vần cách (già-qua, đâu-sầu, hay-bay)

– Nhịp: 2/3, 3/2, ¼

Câu 2 (trang 47 sgk Ngữ văn lớp 7 Tập 1):

Cảnh và người ở phần đầu bài thơ hiện lên thật đẹp, tràn đầy sức sống với hoa đào nở, ông đồ già, phố đông người. Nó gợi lên một không khí tấp nập, đông vui, háo hức trong không khí Tết đến xuân về.

Câu 3 (trang 47 sgk Ngữ văn lớp 7 Tập 1):

– Tài năng viết chữ của ông đồ được thể hiện qua những nét chữ ngay ngắn, đẹp đẽ như phương múa rồng bay trên giấy, cùng với đó là lời khen của những người xin chữ và những vị khách qua đường.

Câu 4 (trang 47 sgk Ngữ văn lớp 7 Tập 1):

Từ “nhưng” ở dòng 9 như thể hiện một sự đối lập giữa câu trước và câu sau, khép lại những hình ảnh tuyệt đẹp và dự báo chẳng lành về những hình ảnh sẽ xuất hiện phía sau.

Câu 5 (trang 48 sgk Ngữ văn lớp 7 Tập 1):

Hình ảnh ở khổ thơ cuối đối lập với hình ảnh ở khổ thơ đầu. Nếu khổ thơ đầu là hình ảnh ông đồ đang ở trên phố, hòa mình vào không khí tấp nập ngày Tết với đào nở, giấy đỏ thì đến câu cuối lại gợi ra liên tưởng về một khung cảnh có chút thiếu. Vẫn là hoa đào nở, người người vẫn tấp nập nhưng không còn thấy sự xuất hiện của ông đồ xưa. Điều đó gợi lên một sự thiêu thiếu, sự mai một của một giá trị văn hóa.

 Trả lời câu hỏi cuối bài: 

Câu 1 (trang 48 sgk Ngữ văn lớp 7 Tập 1):

– Bài thơ viết về ông đồ và sự ngày càng mai một của một nét đẹp văn hóa truyền thống “xin chữ Nho”. 

– Tác giả là người bày tỏ cảm xúc, suy nghĩ trong bài thơ.

-Làm thế nào để diễn đạt đúng cảm xúc trước sự mất mát của một giá trị văn hóa truyền thống quý báu của dân tộc? Điều đó làm cho lòng ta bồi hồi tiếc nuối, xuyên xao vì mất mát đau lòng của nét đẹp truyền thống – truyền thống xin chữ Nho, đặc biệt là trong những ngày Tết cổ truyền, những khoảnh khắc đậm đà tâm linh và tình cảm của người Việt.

Câu 2 (trang 48 sgk Ngữ văn lớp 7 Tập 1):

– Nội dung bài thơ được trình bày theo trình tự thời gian.

– Cách trình bày như vậy có tác dụng thể hiện sự mai một, mất dần của một nét đẹp văn hóa truyền thống theo thời gian.

Câu 3 (trang 48 sgk Ngữ văn lớp 7 Tập 1):

– Bức tranh về ông đồ ở khổ 1 và 2 là bức chân dung của một người với vẻ ngoại hình đầy tài năng, đặc biệt là trong lĩnh vực thư pháp và chữ Nho. Như một hình ảnh tinh tú, ông thu hút sự chú ý và lòng kính trọng từ mọi người xung quanh. Mọi cái nhìn đều bị cuốn hút bởi vẻ đẹp tuyệt vời của tài năng nghệ thuật của ông, như một phượng hoàng múa rồng bay, trở thành đề tài ca ngợi và tấm tắc ngợi khen tài trong cộng đồng.

– Tuy nhiên, khổ 3 và 4 của bức tranh mô tả một hiện thực đau lòng. Dù vẫn giữ được vẻ ngoại hình tài hoa, ông đồ dường như đã trở nên cô đơn và bị lãng quên. Mọi người đi qua ông mà không còn quan tâm, nhưng ông vẫn ngồi đó, giữ lấy tài năng của mình nhưng không còn được đánh giá và tôn trọng như trước đây. Hình ảnh này không chỉ là sự mất mát về sự chú ý, mà còn là biểu tượng cho sự thay đổi của giá trị văn hóa và sự lạc quan của xã hội đối với những nghệ nhân tài năng.

Sự đối lập đó là dấu hiệu cho thấy sự phai nhạt của giá trị văn hóa truyền thống trong văn hoá cộng đồng. Ông đồ vẫn giữ nguyên vẻ tài năng, sự đẹp đẽ của văn hóa truyền thống, và chờ đợi sự chú ý từ mọi người. Tuy nhiên, những bước chân đi qua ta không còn đầy ánh nhìn tò mò hay sự quan tâm, giống như mọi người đã trở nên lạnh lùng và thờ ơ với chính vẻ đẹp và giá trị mà ông đồ để lại. Đó là một dấu hiệu đau lòng về sự suy giảm và làm mờ những giá trị văn hóa truyền thống trước sự lạc quan và thay đổi của xã hội hiện đại.

Câu 4 (trang 48 sgk Ngữ văn lớp 7 Tập 1):

– Biện pháp tu từ: câu hỏi tu từ (Người thuê viết nay đâu?; Hồn ở đâu bây giờ), liệt kê (hoa đào, mực, giấy đỏ)

→ Tác dụng:Như một câu chuyện tự tâm sự, bài thơ khắc họa sự than thở của người viết, bộc lộ tâm trạng ngậm ngùi và đau lòng trước một quá khứ huy hoàng đã trôi qua, nay chỉ còn là những dấu vết màu sắc phai nhạt. Những bức tranh ký ức dường như mất đi sức sống và rực rỡ của ngày xưa, để lại chỉ những góc khuất mờ mịt. Bài thơ làm nổi bật sự hối tiếc khôn nguôi về những khoảnh khắc đẹp đẽ đã trôi qua và không bao giờ trở lại.

Câu 5 (trang 48 sgk Ngữ văn lớp 7 Tập 1):

Bài thơ trên không chỉ mô tả chân thật cảnh đẹp mà còn là hình ảnh tâm trạng một cách trôi chảy. Trang giấy, từng tờ vốn đỏ rực, giờ đây mờ nhạt do bị bỏ quên, như là biểu tượng cho sự lãng quên và hụt hẫng của thời gian. Mực nghiên cũng chẳng được sử dụng, mặc dù từng hạt mực vẫn còn, nhưng chúng đóng lại như là một câu chuyện không kể lên được. Cảnh lá giấy lơ lửng, không ai chăm sóc, mỗi tấm giấy rơi xuống đều là một câu chuyện tình yêu không được thắm thiết. Mưa bụi, như những giọt lệ chua cay, vuốt nhẹ nhàng trên bức tranh buồn bã, làm cho mỗi chi tiết càng trở nên đẹp đẽ nhưng cũng đau đớn.

Trong khung cảnh như vậy, bức tranh trở nên hữu tình, đậm chất nghệ thuật. Ngay cả những vật vô tri như giấy và mực cũng không tránh khỏi cảm xúc. Lời Nguyễn Du về nỗi buồn sâu sắc như in dấu vào từng đường nét, mỗi tấm giấy, mỗi giọt mực đều hòa quyện cùng nỗi buồn trong lòng người. Thông qua chúng, tác giả không chỉ thể hiện sự tiếc nuối mà còn là sự day dứt, lưu luyến về một thời khắc huy hoàng, giờ chỉ là quá khứ u buồn và tiêu tán.

Câu 6 (trang 48 sgk Ngữ văn lớp 7 Tập 1):

Em hiểu rõ ý nghĩa của truyền thống “xin chữ” mỗi khi Tết đến, một phong tục có nguồn gốc từ tâm huyết của những người yêu chuộng tri thức, trân trọng vẻ đẹp của những nét chữ tinh tế. Trong những ngày cuối năm và đầu năm mới, việc xin chữ không chỉ là một nghi lễ truyền thống mà còn là bước khởi đầu mang đầy ý nghĩa tâm linh. Như là việc mở đầu cho một chuỗi những điều tốt lành trong năm mới, những người thực hiện nghi thức xin chữ mong muốn nhận được một phần của sự may mắn và tài lộc.

Phong tục này không chỉ là một biểu tượng đẹp đẽ của văn hóa truyền thống mà còn là sự tôn trọng và trọng trách với tri thức. Đó là cách để thể hiện lòng biết ơn và sự kính trọng đối với tri thức, với chữ nghĩa và ý nghĩa sâu sắc mà nó mang lại. Từ việc xin chữ, ta cảm nhận được sự hiếu học, lòng trân trọng văn hóa, và mong muốn khởi đầu năm mới với niềm vui, hạnh phúc và những điều tốt lành.

Với những hướng dẫn soạn bài thơ Ông Đồ – ngữ văn 7 tập 1 – sách Cánh Diều chi tiết như trên. Hy vọng sẽ giúp các bạn nắm được những ý chính của bài thơ này. Chúc các bạn có những bài soạn thật tốt, để thuận tiện trong quá trình tiếp thu bài giảng.