Soạn bài Ôn tập phần Tiếng Việt

Hướng dẫn soạn bài Ôn tập phần Tiếng Việt – Ngữ văn 9 chi tiết, đầy đủ nhất. Thông qua việc thực hành trả lời các câu hỏi trong phần hướng dẫn và bài tập, chúng ta có thể củng cố kiến thức cơ bản về học phần này.

I – Khởi ngữ và các thành phần biệt lập

Câu 1: (Trang 109, SGK Ngữ Văn 9 Tập 2)

STT Khởi ngữ Thành phần biệt lập
1 Xây cái lăng ấy cả làng phục dịch, cả làng gánh gạch, đập đá, làm phu hồ cho nó
2 chiếc kim đồng hồ vật duy nhất vẫn bình tĩnh, phớt lờ mọi biến động chung là chiếc kim đồng hồ
3 cô chìa tay ra cho anh nắm cẩn trọng, rõ ràng, như người ta cho nhau cái gì chứ không phải là cái bắt tay
4 Thưa ông, chúng cháu Ở Gia Lâm lên đấy ạ Đi bốn năm hôm mới lên đến dãy, vất vả quá !

Câu 2: Viết một đoạn văn ngắn giới thiệu truyện ngắn Bến quê của Nguyễn Minh Châu, trong đó có ít nhất một câu chứa khởi ngữ và một câu chứa thành phần tình thái.

Bến quê là một truyện ngắn xuất sắc của nhà văn Nguyễn Minh Châu, được sáng tác năm 1985. Truyện kể về nhân vật Nhĩ, một người đàn ông từng đi khắp nơi trên thế giới, nhưng cuối đời lại bị bệnh hiểm nghèo, nằm liệt giường. Khi nhìn thấy bãi bồi bên kia sông, Nhĩ đã có những suy nghĩ, cảm xúc mới mẻ. Anh ta nhận ra rằng, những gì gần gũi, thân thuộc nhất lại là những thứ mà anh ta đã bỏ quên bấy lâu nay.

Truyện bắt đầu bằng một câu khởi ngữ: “Hôm nay là một buổi sáng đẹp trời.” Câu này nêu lên thời gian và không gian của câu chuyện, đồng thời tạo nên một cảm giác tươi sáng, thanh bình cho người đọc.

Truyện kết thúc bằng một câu chứa thành phần tình thái: “Chắc chắn rồi, thế giới này là một nơi rất đáng yêu. Ở đó có những con người đáng yêu và có những điều đáng yêu. Chỉ có điều, chúng ta đã không biết trân trọng.” Câu này thể hiện những suy ngẫm, chiêm nghiệm của nhân vật Nhĩ về cuộc đời. Anh ta nhận ra rằng, cuộc sống là vô cùng quý giá và con người cần phải biết trân trọng những giá trị bình dị, giản đơn.

Truyện ngắn Bến quê mang ý nghĩa nhân văn sâu sắc, nhắc nhở con người hãy biết trân trọng những giá trị bình dị, giản đơn của cuộc sống.

II – Liên kết câu và liên kết đoạn văn

Phân tích phép liên kết

Trong đoạn trích “Ở rừng mùa này thường như thế. Mưa. Nhưng mưa đá. Lúc đầu tôi không biết. Nhưng rồi có tiếng lanh canh gõ trên nóc hang. Có cái gì vô cùng sắc xé không khí ra từng mảnh vụn. Gió. Và tôi thấy đau, ướt ở má.”, từ “thế” được sử dụng trong câu “Mùa này thường như thế” để lặp lại từ “như thế” trong câu “ở rừng mùa này thường như thế”. Phép lặp từ ngữ này có tác dụng nhấn mạnh sự thường xuyên, lặp đi lặp lại của hiện tượng mưa đá ở rừng mùa này.

Trong đoạn trích “Lừ phòng bên kia một cô bé rất xinh mặc chiếc áo may ô con trai và vẫn còn cầm thu thu một đoạn dây sau lưng chạy sang. Cô bé bên nhà hàng xóm đã quen với công việc này. Nó lễ phép hỏi Nhĩ: “Bác cần nằm xuống phải không ạ ?”.”, từ “cô bé” được sử dụng trong câu “Cô bé bên nhà hàng xóm đã quen với công việc này” để thay thế cho cụm từ “cô bé bên kia một cô bé rất xinh mặc chiếc áo may ô con trai và vẫn còn cầm thu thu một đoạn dây sau lưng” trong câu trước. Phép thế này có tác dụng tránh lặp từ ngữ, đồng thời làm câu văn ngắn gọn, súc tích hơn.

Trong đoạn trích “Những cái “com-pa” kia lại làm bất bình lắm, tỏ vẻ khinh bỉ, cười kháy tôi như cười kháy một người Pháp không biết đến Nã Phá Luân, một người Mĩ không biết đến Hoa Thịnh Đôn vậy ! Rồi nói:

Ồn à! Phải, bây giờ cao sang rồi thì để ý đâu đến bọn chúng tôi nữa ! Tôi hoảng hốt, đứng dậy nói:

Đâu có phải thế! Tôi…”, từ “cao sang” được sử dụng trong câu “bây giờ cao sang rồi thì để ý đâu đến bọn chúng tôi nữa” để thay thế cho cụm từ “đã trở nên cao sang” trong câu trước. Phép thế này có tác dụng tránh lặp từ ngữ, đồng thời làm câu văn ngắn gọn, súc tích hơn.

Bảng tổng kết về các phép liên kết đã học

Phép liên kết Ví dụ
Lặp từ ngữ “Ở rừng mùa này thường như thế. Mưa. Nhưng mưa đá. Lúc đầu tôi không biết. Nhưng rồi có tiếng lanh canh gõ trên nóc hang. Có cái gì vô cùng sắc xé không khí ra từng mảnh vụn. Gió. Và tôi thấy đau, ướt ở má.” (Lê Minh Khuê, Những ngôi sao xa xôi)
Đồng nghĩa, trái nghĩa và liên tưởng “Cái “com-pa” kia lại làm bất bình lắm, tỏ vẻ khinh bỉ, cười kháy tôi như cười kháy một người Pháp không biết đến Nã Phá Luân, một người Mĩ không biết đến Hoa Thịnh Đôn vậy !” (Lỗ Tấn, Cố Hương)
Thế “Lừ phòng bên kia một cô bé rất xinh mặc chiếc áo may ô con trai và vẫn còn cầm thu thu một đoạn dây sau lưng chạy sang. Cô bé bên nhà hàng xóm đã quen với công việc này. Nó lễ phép hỏi Nhĩ: “Bác cần nằm xuống phải không ạ ?”. (Nguyễn Minh Châu, Bến quê)
Nối “Ở rừng mùa này thường như thế. Mưa. Nhưng mưa đá. Lúc đầu tôi không biết. Nhưng rồi có tiếng lanh canh gõ trên nóc hang. Có cái gì vô cùng sắc xé không khí ra từng mảnh vụn. Gió. Và tôi thấy đau, ướt ở má.” (Lê Minh Châu, Những ngôi sao xa xôi)
Từ ngữ tương ứng “Những cái “com-pa” kia lại làm bất bình lắm, tỏ vẻ khinh bỉ, cười kháy tôi như cười kháy một người Pháp không biết đến Nã Phá Luân, một người Mĩ không biết đến Hoa Thịnh Đôn vậy ! Rồi nói:

3, Nêu rõ sự liên kết về nội dung, về hình thức giữa các câu trong đoạn văn em viết về truyện ngắn Bến quê của Nguyễn Minh Châu.

Sự liên kết về nội dung

Các câu trong đoạn văn về truyện ngắn Bến quê của Nguyễn Minh Châu được liên kết với nhau một cách chặt chẽ, logic, thể hiện được nội dung của đoạn văn. Cụ thể:

Câu đầu tiên nêu lên khái quát về tác phẩm: “Bến quê là một truyện ngắn xuất sắc của nhà văn Nguyễn Minh Châu.” Câu này giới thiệu cho người đọc về tác phẩm, giúp người đọc có cái nhìn tổng quan về tác phẩm.

Câu thứ hai nêu lên nội dung chính của tác phẩm: “Truyện kể về nhân vật Nhĩ, một người đàn ông từng đi khắp nơi trên thế giới, nhưng cuối đời lại bị bệnh hiểm nghèo, nằm liệt giường.” Câu này cụ thể hóa nội dung của tác phẩm, giúp người đọc hiểu rõ hơn về nhân vật và cốt truyện của tác phẩm.

Câu thứ ba nêu lên những suy nghĩ, cảm xúc của Nhĩ khi nhìn thấy bãi bồi bên kia sông: “Khi nhìn thấy bãi bồi bên kia sông, Nhĩ đã có những suy nghĩ, cảm xúc mới mẻ. Anh ta nhận ra rằng, những gì gần gũi, thân thuộc nhất lại là những thứ mà anh ta đã bỏ quên bấy lâu nay.” Câu này thể hiện được nội dung tư tưởng của tác phẩm, đó là bài học về sự trân trọng những giá trị bình dị, giản đơn của cuộc sống.

Sự liên kết về hình thức

Các câu trong đoạn văn được liên kết với nhau bằng một số biện pháp nghệ thuật như:

Lặp từ ngữ: từ “Bến quê” được lặp lại ở hai câu đầu, tạo nên sự nhấn mạnh và liên kết giữa hai câu.

Dùng đại từ xưng hô: đại từ “anh” được dùng để thay thế cho nhân vật Nhĩ, thể hiện sự liên kết giữa hai câu nói về nhân vật này.

Dùng từ ngữ tương đồng: các từ “gần gũi”, “thân thuộc”, “bình dị”, “giản đơn” được dùng trong câu thứ ba, tạo nên sự liên kết về nghĩa giữa các câu.

Sự liên kết về nội dung và hình thức của các câu trong đoạn văn đã giúp cho đoạn văn được mạch lạc, rõ ràng, dễ hiểu và có tính thuyết phục cao.

III – Nghĩa tường minh và hàm ý

Câu 1: (Trang 111, SGK Ngữ Văn 9 Tập 2)

Qua câu nói được in đậm ở cuối truyện, người ăn mày muốn nói với người nhà giàu rằng, ở dưới địa ngục, các nhà giàu đã chiếm hết cả chỗ, không còn chỗ cho người nghèo. Câu nói này mang ý nghĩa châm biếm, phê phán sự tham lam, ích kỷ của những người giàu có, họ chỉ biết nghĩ đến bản thân mình mà không quan tâm đến những người nghèo khổ.

Cụ thể, trong câu chuyện, người nhà giàu đã không cho người ăn mày xin ăn, thậm chí còn mắng người ăn mày là “rõ trông như người ở dưới địa ngục mới lên”. Câu nói này cho thấy sự coi thường, khinh bỉ của người nhà giàu đối với người nghèo.

Người ăn mày đã trả lời rằng, anh ta ở dưới địa ngục mới lên đây. Câu nói này có hai ý nghĩa. Thứ nhất, nó thể hiện sự thật rằng, người nghèo khổ thường xuyên phải chịu cảnh đói nghèo, khổ cực, như thể đang sống trong địa ngục. Thứ hai, nó cũng là một lời trách móc, mỉa mai dành cho người nhà giàu. Người ăn mày cho rằng, chính sự tham lam, ích kỷ của những người giàu có đã khiến cho cuộc sống của người nghèo khổ trở nên khó khăn, vất vả hơn.

Câu nói của người ăn mày đã thể hiện được tiếng nói của những người nghèo khổ, họ đang lên tiếng tố cáo sự bất công, bất bình đẳng trong xã hội. Câu nói này cũng là một lời nhắc nhở mọi người hãy biết quan tâm, giúp đỡ những người nghèo khổ, để giúp họ có một cuộc sống tốt đẹp hơn.

Câu 2: (Trang 111, SGK Ngữ Văn 9 Tập 2)

a, Hàm ý của câu “Tớ thấy họ ăn mặc rất đẹp”

Hàm ý của câu nói này là Nam không đánh giá cao khả năng chơi bóng của đội bóng huyện. Câu nói này đã vi phạm phương châm hội thoại về tính chân thực, vì Nam không trả lời trực tiếp câu hỏi của Tuấn về việc đội bóng huyện chơi có hay không. Thay vào đó, Nam chỉ nói rằng anh ta thấy họ ăn mặc rất đẹp. Câu nói này có thể hiểu là Nam đang ngầm chê bai đội bóng huyện chỉ biết ăn mặc đẹp mà không biết chơi bóng hay.

b, Hàm ý của câu “Tớ báo cho Chi rồi”

Hàm ý của câu nói này là Huệ chưa báo cho Nam và Tuấn. Câu nói này đã vi phạm phương châm hội thoại về tính đầy đủ, vì Huệ chỉ trả lời cho Lan về việc cô ấy đã báo cho Chi hay chưa, mà không trả lời cho Lan về việc cô ấy đã báo cho Nam và Tuấn hay chưa. Câu nói này có thể hiểu là Huệ đang muốn che giấu việc cô ấy đã quên báo cho Nam và Tuấn.

Cả hai câu nói trên đều được tạo ra bằng cách cố ý vi phạm phương châm hội thoại. Trong trường hợp thứ nhất, Nam đã vi phạm phương châm hội thoại về tính chân thực để thể hiện sự không hài lòng của mình về đội bóng huyện. Trong trường hợp thứ hai, Huệ đã vi phạm phương châm hội thoại về tính đầy đủ để che giấu lỗi của mình.

Với những hướng dẫn soạn bài Ôn tập phần Tiếng Việt – Ngữ văn 9 chi tiết như trên. Hy vọng sẽ giúp các bạn nắm được những ý chính của học phần này. Chúc các bạn có những bài soạn thật tốt, để thuận tiện trong quá trình tiếp thu bài giảng.