Soạn bài Ôn tập cuối học kì II

Hướng dẫn soạn bài Ôn tập cuối học kì II – Sách Chân trời sáng tạo trang 105 Ngữ Văn 11 tập 2 chi tiết, đầy đủ nhất. Thông qua việc thực hành trả lời các câu hỏi trong phần hướng dẫn và bài tập, chúng ta có thể củng cố kiến thức cơ bản về bài học này.

Câu 1 (trang 105, SGK Ngữ Văn 11, tập hai):

Kẻ vào vở hai cột A, B theo mẫu dưới đây, sau đó nối tên thể loại ở cột A với đặc điểm phù hợp được nêu ở cột B; giải thích lí do bạn tạo ra các đường nối giữa hai cột A và B

Bảng - Ôn tập học kì II

Trả lời:

Bảng 2 - Ôn tập học kì II

Câu 2 (trang 105, SGK Ngữ Văn 11, tập hai):

Nêu một số điểm khác biệt giữa truyện thơ dân gian và truyện thơ Nôm, minh họa bằng các dẫn chứng lấy từ các văn bản đã học.

Trả lời

Truyện thơ dân gian và truyện thơ Nôm là hai thể loại văn học truyền thống của Việt Nam, có những điểm khác biệt về ngôn ngữ, hình thức, nội dung và chức năng.

Về ngôn ngữ, truyện thơ dân gian thường được viết bằng ngôn ngữ thông thường, dễ hiểu và phổ biến trong dân gian, trong khi truyện thơ Nôm được viết bằng chữ Nôm, sử dụng từ vựng phong phú hơn và phức tạp hơn.

Về hình thức, truyện thơ dân gian thường có hình thức đơn giản, thường chỉ bao gồm một số câu thơ ngắn, không có cốt truyện dài, trong khi truyện thơ Nôm thường có cấu trúc phức tạp hơn, có thể bao gồm nhiều câu thơ, tạo thành cốt truyện dài hơn.

Về nội dung, truyện thơ dân gian thường kể về các chuyện tình cảm, tâm linh, tình bạn, trong khi truyện thơ Nôm thường kể về các chủ đề lịch sử, nhân vật lịch sử, văn hóa và tín ngưỡng dân gian.

Về chức năng, truyện thơ dân gian thường được sử dụng để giải trí, thư giãn trong các dịp hội hè, lễ hội dân gian, trong khi truyện thơ Nôm có tính giáo dục, truyền bá các giá trị lịch sử, văn hóa của dân tộc.

Câu 3 (trang 106, SGK Ngữ Văn 11, tập hai):

Nêu một số điểm nổi bật về con người, cuộc đời và sự nghiệp văn chương của Nguyễn Du. Theo bạn, với Truyện Kiều, Nguyễn Du đã có những đóng góp gì trong việc phát triển thể loại truyện thơ Nôm của dân tộc?

Trả lời

Nguyễn Du là một nhà thơ lớn của dân tộc Việt Nam, sinh ra trong một gia đình quý tộc, nhiều đời làm quan to dưới triều Lê, Trịnh. Ông được đào tạo bài bản, có học thức sâu rộng về triết học, văn chương và nhạc lý. Cuộc đời của Nguyễn Du trải qua nhiều thăng trầm, nhưng ông vẫn giữ vững tinh thần yêu nước và nhân đạo cao cả.

Sự nghiệp văn chương của Nguyễn Du đồ sộ, với nhiều tác phẩm có giá trị, tiêu biểu nhất là Truyện Kiều. Truyện Kiều là một tác phẩm truyện thơ dài và sâu sắc về cuộc đời nữ tài tử Kiều và những biến cố đầy đau khổ mà cô phải trải qua. Tác phẩm đã đạt được những thành tựu to lớn trên nhiều phương diện, góp phần phát triển thể loại truyện thơ Nôm của dân tộc.

Về nội dung, Truyện Kiều là một tác phẩm có nội dung sâu sắc, thể hiện những giá trị nhân văn cao cả. Tác phẩm đã phản ánh một cách chân thực và sinh động xã hội Việt Nam trong giai đoạn cuối thế kỷ XVIII đầu thế kỷ XIX, với những mâu thuẫn, bất công, đồng thời thể hiện niềm cảm thương sâu sắc đối với số phận bi kịch của người phụ nữ.

Về nghệ thuật, Truyện Kiều có nghệ thuật đặc sắc, thể hiện tài năng bậc thầy của Nguyễn Du. Tác phẩm sử dụng thành công thể thơ lục bát, kết hợp với những yếu tố nghệ thuật truyền thống và hiện đại, tạo nên một tác phẩm có giá trị nghệ thuật cao.

Về ảnh hưởng, Truyện Kiều đã có ảnh hưởng sâu rộng đến đời sống văn hóa tinh thần của người Việt Nam. Tác phẩm đã được dịch ra nhiều thứ tiếng trên thế giới, trở thành một trong những tác phẩm văn học được biết đến nhiều nhất của Việt Nam.

Nhìn chung, với Truyện Kiều, Nguyễn Du đã góp phần nâng cao vị thế của thể loại truyện thơ Nôm của dân tộc, đưa thể loại này lên một tầm cao mới. Tác phẩm của ông đã mở ra một trang mới cho sự phát triển của văn học dân tộc Việt Nam.

Câu 4 (trang 106, SGK Ngữ Văn 11, tập hai):

Bạn hiểu thế nào là yếu tố tượng trưng trong thơ trữ tình? Theo bạn, đoạn thơ sau có yếu tố tượng trưng không? Dựa vào những dấu hiệu nào để khẳng định như vậy?

Này lắng nghe em khúc nhạc thơm

Say người như rượu tối tân hôn;

Như hương thấm tận qua xương tuỷ,

Âm điệu, thần tiên, thấm tận hồn.

 

Hãy tự buông cho khúc nhạc hường

Dẫn vào thế giới của Du Dương

Ngừng hơi thở lại, xem trong ấy

Hiển hiện hoa và phảng phất hương…

Trả lời

Yếu tố tượng trưng trong thơ trữ tình là những hình ảnh, biểu tượng được sử dụng để biểu đạt những ý nghĩa trừu tượng, không thể diễn đạt trực tiếp bằng ngôn ngữ. Các hình ảnh, biểu tượng này thường mang tính ước lệ, gợi cảm, có khả năng gợi ra những liên tưởng, suy tưởng sâu xa trong tâm trí người đọc.

Đoạn thơ trên có yếu tố tượng trưng. Cụ thể, các hình ảnh, biểu tượng được sử dụng trong đoạn thơ như sau:

  • “Khúc nhạc thơm” tượng trưng cho vẻ đẹp, sự tinh tế, lãng mạn của âm nhạc.
  • “Rượu tối tân hôn” tượng trưng cho sự say đắm, ngây ngất.
  • “Hương” tượng trưng cho sự tinh tế, quyến rũ.
  • “Âm điệu, thần tiên” tượng trưng cho vẻ đẹp, sự cao quý, thanh thoát của âm nhạc.
  • “Thế giới của Du Dương” tượng trưng cho một thế giới đẹp đẽ, huyền ảo, đầy chất thơ.
  • “Hoa” tượng trưng cho vẻ đẹp, sự tươi mới, tinh khôi.
  • “Hương” tượng trưng cho sự tinh tế, quyến rũ.
  • Các hình ảnh, biểu tượng được sử dụng mang tính ước lệ, gợi cảm. Ví dụ, “khúc nhạc thơm” gợi lên vẻ đẹp, sự tinh tế, lãng mạn của âm nhạc; “rượu tối tân hôn” gợi lên sự say đắm, ngây ngất; “hương” gợi lên sự tinh tế, quyến rũ.
  • Các hình ảnh, biểu tượng được sử dụng có khả năng gợi ra những liên tưởng, suy tưởng sâu xa trong tâm trí người đọc. Ví dụ, “khúc nhạc thơm” gợi lên vẻ đẹp của âm nhạc, gợi cho người đọc liên tưởng đến những vẻ đẹp khác trong cuộc sống; “rượu tối tân hôn” gợi lên sự say đắm, ngây ngất trong tình yêu, gợi cho người đọc liên tưởng đến những cảm xúc lãng mạn, ngọt ngào.

Các hình ảnh, biểu tượng này được sử dụng một cách khéo léo, tinh tế, tạo nên một không gian thơ mộng, huyền ảo, đầy chất thơ. Đoạn thơ đã gợi lên trong lòng người đọc những cảm xúc say đắm, ngây ngất, khao khát được hòa mình vào thế giới của âm nhạc.

Câu 5 (trang 106, SGK Ngữ Văn 11, tập hai):

Nêu một số điểm khác biệt chính giữa truyện và truyện kí.

Trả lời

Truyện và truyện kí là hai thể loại văn học thuộc loại hình tự sự, có nhiều điểm tương đồng, nhưng cũng có những điểm khác biệt cơ bản.

Điểm giống nhau giữa truyện và truyện kí

  • Cả truyện và truyện kí đều có nội dung kể lại một chuỗi sự kiện, biến cố xảy ra trong cuộc đời của một hay nhiều nhân vật.
  • Cả truyện và truyện kí đều sử dụng ngôn ngữ để kể, tả, biểu cảm, nghị luận.
  • Cả truyện và truyện kí đều có tính thẩm mĩ, thể hiện những giá trị tư tưởng, đạo lí của tác giả.

Điểm khác nhau giữa truyện và truyện kí

  • Về hình thức:
    • Truyện thường được viết theo lối kể chuyện, có cốt truyện, nhân vật, tình huống,… rõ ràng, mạch lạc.
    • Truyện kí thường được viết theo lối tự sự, có thể có cốt truyện, nhưng không nhất thiết phải có, thường tập trung vào việc miêu tả, kể lại những sự kiện, nhân vật, hoàn cảnh có thật trong cuộc sống.
  • Về nội dung:
    • Truyện thường tập trung vào việc kể lại những câu chuyện hư cấu, có yếu tố hoang đường, kì ảo.
    • Truyện kí thường tập trung vào việc kể lại những câu chuyện có thật, có giá trị lịch sử, văn hóa, xã hội.
  • Về ngôn ngữ:
    • Truyện thường sử dụng ngôn ngữ kể chuyện, có thể sử dụng cả ngôn ngữ kể chuyện và ngôn ngữ miêu tả, biểu cảm.
    • Truyện kí thường sử dụng ngôn ngữ miêu tả, biểu cảm nhiều hơn, nhằm tái hiện lại một cách chân thực, sinh động những sự kiện, nhân vật, hoàn cảnh có thật.
  • Về chức năng:
    • Truyện thường có chức năng giải trí, giáo dục, bồi dưỡng tâm hồn con người.
    • Truyện kí thường có chức năng phản ánh hiện thực, giáo dục, nâng cao nhận thức của con người.

Câu 6 (trang 106, SGK Ngữ Văn 11, tập hai):

Nhận xét về cách sử dụng ngôi kể, điểm nhìn trong tác phẩm Tôi đã học tập như thế nào? (M.Go-rơ-ki) hoặc Xà bông “Con Vịt” (Trần Bảo Định)

Trả lời

Trong tác phẩm “Tôi đã học tập như thế nào?”, M.Go-rơ-ki sử dụng ngôi thứ nhất, điểm nhìn người kể xưng “tôi”. Đây là một ngôi kể phổ biến trong các tác phẩm tự truyện, hồi kí, giúp người kể dễ dàng bộc lộ những suy nghĩ, cảm xúc, trải nghiệm của bản thân.

Tác giả sử dụng ngôi kể thứ nhất, điểm nhìn người kể xưng “tôi” để kể lại những câu chuyện về cuộc đời học tập của mình. Điều này giúp người đọc có thể cảm nhận được những suy nghĩ, cảm xúc chân thực của tác giả, đồng thời hiểu rõ hơn về những khó khăn, thử thách mà tác giả đã phải vượt qua để có được thành công.

Chẳng hạn, khi kể về những ngày đầu tiên đi học, tác giả đã thể hiện sự bỡ ngỡ, lo lắng của bản thân: “Tôi run run bước vào lớp, lòng tôi đầy lo lắng. Tôi sợ thầy giáo sẽ mắng chửi tôi vì tôi không biết đọc, không biết viết.” Những câu văn như “Tôi run run”, “lòng tôi đầy lo lắng” đã thể hiện rõ tâm trạng của tác giả trong hoàn cảnh đó.

Hay khi kể về những ngày theo học ở trường dòng, tác giả đã thể hiện sự căm phẫn đối với những kẻ áp bức, bóc lột: “Tôi căm phẫn những kẻ đã bắt tôi phải rời xa gia đình, rời xa quê hương, bắt tôi phải sống trong cảnh khổ sở, nhục nhã.” Những câu văn như “Tôi căm phẫn”, “bắt tôi phải rời xa gia đình, rời xa quê hương” đã thể hiện rõ thái độ của tác giả đối với những kẻ áp bức, bóc lột.

Như vậy, cách sử dụng ngôi kể thứ nhất, điểm nhìn người kể xưng “tôi” trong tác phẩm “Tôi đã học tập như thế nào?” đã góp phần quan trọng trong việc thể hiện những suy nghĩ, cảm xúc, trải nghiệm của tác giả, đồng thời giúp người đọc có được những hiểu biết sâu sắc về cuộc đời học tập của tác giả.

Câu 7 (trang 106, SGK Ngữ Văn 11, tập hai):

Theo bạn, nhìn từ mối quan hệ với tác giả, người kể chuyện trong truyện ngắn khác với người kể chuyện trong truyện kí như thế nào? Chia sẻ cảm nhận hoặc ấn tượng sâu sắc nhất của bạn khi đọc một trong ba truyện ngắn Chiều sương (Bùi Hiển), Muối của rừng (Nguyễn Huy Thiệp), Kiến và người (Trần Duy Phiên)

Trả lời

Truyện ngắn và truyện kí đều là hai thể loại văn học thuộc loại hình tự sự, có nhiều điểm tương đồng, nhưng cũng có những điểm khác biệt cơ bản. Một trong những điểm khác biệt đó là mối quan hệ giữa người kể chuyện và tác giả.

Trong truyện ngắn, người kể chuyện thường là nhân vật trong truyện, tức là nhân vật chính hoặc nhân vật phụ của câu chuyện. Người kể chuyện có thể xưng “tôi” hoặc xưng “anh”, “chị”, “ông”, “bà”,… để kể lại những gì mình đã trải qua, đã chứng kiến. Cách kể này giúp người đọc có thể cảm nhận được những suy nghĩ, cảm xúc chân thực của người kể chuyện, đồng thời hiểu rõ hơn về những sự kiện, nhân vật trong truyện.

Trong truyện kí, người kể chuyện thường không phải là nhân vật trong truyện, mà là một người quan sát, ghi chép lại những gì mình đã chứng kiến, đã trải qua. Người kể chuyện có thể xưng “tôi” hoặc xưng “anh”, “chị”, “ông”, “bà”,… để kể lại những gì mình đã biết, đã nghe, hoặc đã đọc. Cách kể này giúp người đọc có thể hiểu rõ hơn về những sự kiện, nhân vật trong truyện, đồng thời có cái nhìn khách quan, toàn diện về vấn đề được tác giả đặt ra.

Trong ba truyện ngắn trên, tôi ấn tượng nhất với truyện ngắn “Chiều sương” của Bùi Hiển. Truyện kể về một buổi chiều sương ở làng quê, qua đó thể hiện những cảm xúc trong sáng, hồn nhiên của một cậu bé.

Tôi ấn tượng với truyện ngắn này bởi những hình ảnh thơ mộng, trữ tình của buổi chiều sương. Chiều sương trong truyện hiện lên với những làn sương mỏng manh, huyền ảo, bao phủ khắp không gian. Cây cối, hoa lá, con người đều như được khoác lên mình một chiếc áo choàng sương mờ ảo.

Tôi cũng ấn tượng với những cảm xúc trong sáng, hồn nhiên của cậu bé. Cậu bé cảm thấy thích thú, vui vẻ khi được hòa mình vào thiên nhiên. Cậu bé cũng cảm thấy lo lắng, buồn bã khi nghĩ về cuộc sống của người dân quê.

Câu 8 (trang 106, SGK Ngữ Văn 11, tập hai):

Lập bảng so sánh và chỉ ra những điểm tương đồng, khác biệt về yêu cầu trong cách viết giữa hai kiểu văn bản:

– Văn bản nghị luận về một vấn đề xã hội trong tác phẩm văn học và văn bản nghị luận về một tác phẩm văn học.

– Báo cáo nghiên cứu về một vấn đề tự nhiên hoặc xã hội và thuyết minh có lồng ghép một hay nhiều yếu tố như miêu tả, tự sự, biểu cảm, nghị luận.

Trả lời

Văn bản nghị luận về một vấn đề xã hội trong tác phẩm văn học Văn bản nghị luận về một tác phẩm văn học
Điểm giống – Đều có mục đích thuyết phục và đưa ra các lập luận để giải thích quan điểm của tác giả hoặc giá trị của tác phẩm.

– Đều cần sử dụng các phương tiện văn học, lý luận và bằng chứng để chứng minh và tỏ rõ quan điểm.

-Cần sử dụng một cách suy nghĩ logic và có một cấu trúc rõ ràng để thuyết phục đọc giả.

Điểm khác – Thuyết phục người đọc đồng ý với quan điểm của tác giả về vấn đề xã hội

– Đưa ra các lập luận về những vấn đề có liên quan đến tác phẩm văn học và vấn đề xã hội

– Sử dụng lý lẽ và bằng chứng để tỏ rõ quan điểm

– Thuyết phục người đọc đồng ý với giá trị của tác phẩm

– Đưa ra các lập luận về giá trị văn học và cách tác giả sử dụng các phương tiện văn học

– Sử dụng các phân tích cụ thể để chỉ ra giá trị của tác phẩm

Câu 9 (trang 106, SGK Ngữ Văn 11, tập hai):

Lập bảng tổng hợp những điểm đáng lưu ý về các tri thức tiếng Việt liên quan đến:

– Đặc điểm, tác dụng của một số hiện tượng phá vỡ những quy tắc ngôn ngữ thông thường;

– Đặc điểm và tác dụng của biện pháp tu từ đối;

– Đặc điểm và tác dụng của biện pháp tu từ lặp cấu trúc;

– Cách nhận biết và cách sửa một số kiểu lỗi về thành phần câu.

Trả lời

Tri thức Tiếng Việt Điểm đáng lưu ý
Hiện tượng phá vỡ quy tắc ngôn ngữ thông thường – Hiện tượng đảo trật tự từ ngữ: dùng mới mục đích nhấn mạnh, tăng sức biểu cảm cho sự diễn đạt

– Hiện tượng mở rộng khả năng kết hợp của từ: từ ngữ được cung cấp thêm những khả năng kết hợp mới tạo ra những kết hợp từ vô cùng độc đáo, nhằm tăng hiệu quả diễn đạt.

– Hiện tượng tách biệt: tách các thành phần câu thành những câu độc lập với dụng ý nhấn mạnh hoặc bộc lộ cảm xúc

Biện pháp tu từ đối – Thường được dùng trong thơ, văn xuôi ở cấp độ câu, đoạn văn hoặc văn bản.

– Tác dụng tạo sự cân xứng về ý nghĩa và nhạc điệu, tạo nên cái đẹp hài hòa theo quan niệm truyền thống của người Việt Nam. Đồng thời có tác dụng giúp miêu tả sự việc, cảnh vật một cách cô đúc, khái quát mà không cần liệt kê, kể lể dài dòng.

Biện pháp tu từ lặp cấu trúc – Là biện pháp tổ chức những vế câu hoặc những câu có cùng một kết cấu ngữ pháp, nhằm nhấn mạnh ý tưởng và tạo sự nhịp nhàng, cân đối cho văn bản.
Cách nhận biết và sửa lỗi thành phần câu – Lỗi thiếu thành phần câu

– Thiếu thành phần vị ngữ

– Thiếu cả thành phần chủ ngữ và vị ngữ

– Không phân định rõ các thành phần câu.

– Sắp xếp sai trật tự thành phần câu

Câu 10 (trang 106, SGK Ngữ Văn 11, tập hai):

Viết đoạn văn (khoảng 200 – 300 chữ) về một trong hai nội dung sau:

– Con người sẽ được gì, mất gì khi trở thành bạn với muôn loài?

– Phải chăng “cái tôi” là một thế giới?

Trả lời

Con người là một sinh vật có ý thức, có trí tuệ, có khả năng cảm nhận và yêu thương. Chúng ta có thể cảm nhận được vẻ đẹp của thiên nhiên, sự đáng yêu của các loài động vật, và sự hòa hợp của con người với thiên nhiên. Khi con người trở thành bạn với muôn loài, chúng ta sẽ nhận được rất nhiều lợi ích cả về vật chất và tinh thần.

Về mặt vật chất, con người sẽ được hưởng những lợi ích to lớn từ thiên nhiên. Các loài động vật có thể giúp con người làm việc, sản xuất, và bảo vệ môi trường. Ví dụ, các loài gia súc có thể giúp con người sản xuất thực phẩm, các loài vật nuôi có thể giúp con người trông coi nhà cửa, và các loài động vật hoang dã có thể giúp con người bảo vệ rừng.

Về mặt tinh thần, con người sẽ được hưởng một cuộc sống hạnh phúc và ý nghĩa hơn. Khi con người hòa mình vào thiên nhiên, chúng ta sẽ cảm thấy thư thái, bình yên, và có được những trải nghiệm mới mẻ. Tình yêu thương với muôn loài sẽ giúp chúng ta trở nên nhân hậu, vị tha, và có trách nhiệm với môi trường.

Tuy nhiên, khi trở thành bạn với muôn loài, con người cũng sẽ gặp phải một số khó khăn. Ví dụ, con người có thể bị các loài động vật tấn công, hoặc có thể bị ảnh hưởng bởi các tác động của thiên nhiên. Ngoài ra, việc bảo vệ muôn loài cũng đòi hỏi sự nỗ lực của toàn xã hội.

Nhìn chung, trở thành bạn với muôn loài là một điều tốt đẹp mà con người nên hướng tới. Chúng ta hãy cùng nhau chung tay bảo vệ thiên nhiên và các loài động vật để có một cuộc sống hòa hợp và hạnh phúc hơn.

Với những hướng dẫn soạn bài Ôn tập cuối học kì II – Sách Chân trời sáng tạo trang 105 Ngữ Văn 11 tập 2 chi tiết như trên. Hy vọng sẽ giúp các bạn nắm được những ý chính của bài học này. Chúc các bạn có những bài soạn thật tốt, để thuận tiện trong quá trình tiếp thu bài giảng.