Soạn bài Đọc Tiểu Thanh kí

Hướng dẫn Soạn bài Đọc Tiểu Thanh kí – Sách Cánh Diều Lớp 11 chi tiết, đầy đủ nhất. Thông qua việc thực hành trả lời các câu hỏi trong phần hướng dẫn và bài tập, chúng ta có thể củng cố kiến thức cơ bản về tác phẩm này.

1) Chuẩn bị

– Xem lại kiến thức đã học về thơ Đường luật để vận dụng đọc hiểu văn bản này.

– Khi đọc thơ chữ Hán của Nguyễn Du, các em cần chú ý:

   + Đọc kĩ bản dịch nghĩa và đọc chú thích để hiểu rõ nghĩa của văn bản.

   + So sánh bản dịch nghĩa và bản dịch thơ để thấy điểm khác biệt.

   + Nhận biết và phân tích giá trị của bài thơ chủ yếu dựa vào bản dịch nghĩa.

– Tìm đọc thêm một số văn bản thơ chữ Hán của Nguyễn Du và các bài phân tích Đọc Tiểu Thanh kí.

– Đọc nội dung giới thiệu sau đây về nhân vật Tiểu Thanh trong bài thơ:

Tương truyền, Tiểu Thanh (người tỉnh Giang Tô, Trung Quốc) là cô gái thông minh, có sắc đẹp, tài năng, thông hiểu nhiều môn nghệ thuật như thơ ca, âm nhạc Năm 16 tuổi, cô làm vợ lẽ cho người đàn ông thuộc gia đình quyền quý. Vợ cả ghen, bắt cô ra ở riêng trên núi Cô Sơn, cạnh vườn hoa Tây Hồ (Hàng Châu, Trung Quốc). Vì đau buồn, cô lâm bệnh rồi chết khi mới 18 tuổi. Tiểu Thanh làm nhiều thơ, từ để gửi gắm nỗi đau khổ, uất ức của mình. Tập thơ, từ mà cô để lại bị người vợ cả đem đốt, một số bài may mắn còn sót lại. Người ta cho khắc in số bài còn lại đó, đặt tên là Phần dư (Bị đốt còn sót lại).

2) Đọc hiểu

* Trả lời câu hỏi giữa bài:

Câu 1: “Son phấn”, “văn chương” là để nói về điều gì ở Tiểu Thanh?

Trong bài thơ “Đọc Tiểu Thanh kí”, Nguyễn Du đã sử dụng hai hình ảnh “son phấn” và “văn chương” để nói về Tiểu Thanh.

“Son phấn” là đồ vật dùng để trang điểm của phụ nữ, tượng trưng cho sắc đẹp và vẻ đẹp của người phụ nữ. Ở đây được hiểu theo nghĩa Tiểu Thanh rất xinh đẹp.

“Văn chương” là biểu tượng của tài năng. Trong bài thơ, “văn chương” của Tiểu Thanh được nhắc đến với hai nét nghĩa:

  • Một là, “văn chương” là hiện thân của tâm hồn, tình cảm của Tiểu Thanh. Những bài thơ của nàng là tiếng lòng, là nỗi đau, là khát vọng của nàng.
  • Hai là, “văn chương” là sự ghi lại những nét đẹp của Tiểu Thanh. Những bài thơ của nàng đã lưu lại cho đời vẻ đẹp của nàng, của tâm hồn nàng.

Như vậy, “son phấn” và “văn chương” đều là những nét đẹp của Tiểu Thanh. Nàng là một người phụ nữ xinh đẹp, tài hoa nhưng có cuộc đời vô cùng bạc mệnh.

Cụ thể, hai câu thơ “Son phấn có thần chôn vẫn hận/ Văn chương không mệnh đốt còn vương” đã thể hiện nỗi thương xót, đồng cảm của Nguyễn Du đối với Tiểu Thanh. Nàng là một người phụ nữ có sắc đẹp nhưng lại bị vùi dập, tàn phá. Nàng là một người có tài năng nhưng lại bị đốt cháy. Nỗi oan ức của nàng đã trở thành nỗi hận, nỗi thương cho bao người.

Hai câu thơ “Son phấn có thần chôn vẫn hận/ Văn chương không mệnh đốt còn vương” cũng thể hiện sự khẳng định của Nguyễn Du về giá trị của cái đẹp và tài năng. Dù bị vùi dập, tàn phá, cái đẹp và tài năng vẫn có sức sống trường tồn.

Câu 2: Chú ý nghệ thuật đối trong hai câu thực và hai câu luận.

Nghệ thuật đối trong hai câu thực

Hai câu thực của bài thơ đối nhau tương đối chặt chẽ về nội dung và hình thức.

  • Về nội dung: Hai câu thơ miêu tả hai cảnh vật đối lập nhau:
    • Câu 1: Cảnh vườn hoa rực rỡ, tươi đẹp trong quá khứ.
    • Câu 2: Cảnh gò hoang tàn, hoang vắng trong hiện tại.
  • Về hình thức: Hai câu thơ đối nhau theo nhiều cặp đối:
    • Đối về tính chất: “hoa uyển” (đẹp, tươi tắn) với “thành khư” (hoang tàn, vắng vẻ).
    • Đối về màu sắc: “lầu son” (vàng óng ánh) với “thạch lựu” (đỏ thắm).
    • Đối về âm thanh: “lao xao” (tiếng ong) với “tiếng trùng” (tiếng dế).

Nghệ thuật đối trong hai câu thực đã góp phần làm nổi bật sự đối lập giữa quá khứ và hiện tại, đồng thời thể hiện sự xót xa, tiếc nuối của tác giả trước số phận bi thảm của nàng Tiểu Thanh.

Nghệ thuật đối trong hai câu luận

Hai câu luận của bài thơ cũng đối nhau tương đối chặt chẽ về nội dung và hình thức.

  • Về nội dung: Hai câu thơ thể hiện hai quan niệm đối lập về số phận của người phụ nữ tài hoa:
    • Câu 1: Quan niệm của người đời thường: Người phụ nữ tài hoa thường có số phận bạc mệnh.
    • Câu 2: Quan niệm của tác giả: Số phận bạc mệnh của người phụ nữ tài hoa là do trời định, không thể thay đổi.
  • Về hình thức: Hai câu thơ đối nhau theo nhiều cặp đối:
    • Đối về tính chất: “bạc mệnh” (nỗi đau thương, bất hạnh) với “thường tình” (thường lệ, phổ biến).
    • Đối về âm thanh: “nghìn năm” với “một tiếng” (thể hiện sự bất lực, bất công).

Nghệ thuật đối trong hai câu luận đã góp phần thể hiện sự đồng cảm, xót thương của tác giả trước số phận bi thảm của người phụ nữ tài hoa, đồng thời thể hiện quan niệm nhân đạo mới mẻ của ông.

Tóm lại, nghệ thuật đối trong hai câu thực và hai câu luận của bài thơ đã góp phần làm nổi bật nội dung của bài thơ, thể hiện cảm xúc và tư tưởng của tác giả.

* Trả lời câu hỏi cuối bài:

Câu 1: Ngoài kết cấu đề, thực, luận, kết của thơ Đường luật, bài Đọc “Tiểu Thanh kí” có thể phân chia thành kết cấu hai phần (bốn câu thơ trên và bốn câu thơ dưới) được không? Vì sao?

Có thể phân chia bài thơ Đọc Tiểu Thanh kí của Nguyễn Du thành hai phần: bốn câu thơ trên và bốn câu thơ dưới.

  • Phần một (bốn câu thơ trên): Giới thiệu và bày tỏ nỗi thương cảm của tác giả đối với số phận bi thảm của nàng Tiểu Thanh.

Trước hết, bốn câu thơ mở đầu giới thiệu về hoàn cảnh sáng tác của bài thơ. Nguyễn Du đang dạo chơi ở Tây Hồ, bỗng nhìn thấy bài thơ của nàng Tiểu Thanh khắc trên vách đá. Bài thơ ấy gợi cho ông nhớ về cuộc đời và số phận bi thảm của nàng.

Nỗi thương cảm của tác giả thể hiện rõ qua những từ ngữ như “tiếc”, “thương”, “bạc mệnh”, “sầu muộn”. Ông thương cảm cho cuộc đời của nàng Tiểu Thanh, một người con gái có tài năng, sắc đẹp nhưng lại phải chịu số phận bi thảm, phải sống trong cảnh cô đơn, sầu muộn.

  • Phần hai (bốn câu thơ dưới): Nỗi niềm suy tư của tác giả về số phận của những người tài hoa bạc mệnh.

Bốn câu thơ cuối thể hiện nỗi niềm suy tư của tác giả về số phận của những người tài hoa bạc mệnh. Ông cho rằng, tài hoa và mệnh bạc là hai thứ không thể dung hòa. Những người tài hoa thường có số phận bất hạnh, phải chịu nhiều đau khổ, tủi nhục.

Tác giả cũng băn khoăn không biết liệu trong tương lai có ai còn nhớ đến mình, thương tiếc cho mình như ông đã thương tiếc cho nàng Tiểu Thanh hay không.

Việc phân chia bài thơ thành hai phần như trên có thể giúp người đọc hiểu rõ hơn về nội dung của bài thơ. Phần một là lời bày tỏ nỗi thương cảm của tác giả đối với số phận bi thảm của nàng Tiểu Thanh. Phần hai là nỗi niềm suy tư của tác giả về số phận của những người tài hoa bạc mệnh.

Tuy nhiên, cần lưu ý rằng, đây chỉ là cách phân chia mang tính tương đối, bởi bài thơ vẫn được viết theo thể thơ Đường luật với bốn phần đề, thực, luận, kết.

Câu 2: Qua hai câu thơ: “Son phấn có thần chôn vẫn hận,/ Văn chương không mệnh đốt còn vương.” em nhận ra điều gì về số phận nàng Tiểu Thanh và tình cảm, thái độ của tác giả?

Qua hai câu thơ: “Son phấn có thần chôn vẫn hận,/ Văn chương không mệnh đốt còn vương.”, ta nhận ra rằng:

  • Số phận của nàng Tiểu Thanh là một bi kịch lớn. Nàng là một người con gái xinh đẹp, tài hoa nhưng lại bị vùi dập bởi chính cái tài, cái đẹp của mình. Nàng bị người vợ cả ghen ghét, đố kỵ, bắt phải chôn vùi những bài thơ của mình.
  • Tác giả Nguyễn Du có một tình cảm, thái độ vô cùng xót xa, đồng cảm đối với nàng Tiểu Thanh. Ông đã sử dụng những hình ảnh mang tính nhân hóa, tượng trưng để diễn tả nỗi hận của son phấn và sự vương vấn của văn chương. Qua đó, ông muốn bày tỏ sự trân trọng, ngợi ca tài năng của nàng Tiểu Thanh và nỗi xót xa cho số phận bất hạnh của nàng.

Cụ thể, câu thơ “Son phấn có thần chôn vẫn hận” sử dụng hình ảnh son phấn có thần để tượng trưng cho vẻ đẹp của nàng Tiểu Thanh. Nàng là một người con gái xinh đẹp, tài hoa, nhưng lại bị vùi dập bởi chính cái đẹp của mình. Nàng bị người vợ cả ghen ghét, đố kỵ, bắt phải chôn vùi những bài thơ của mình. Điều đó khiến cho nàng cảm thấy uất hận, xót xa.

Câu thơ “Văn chương không mệnh đốt còn vương” sử dụng hình ảnh văn chương không mệnh để tượng trưng cho tài năng của nàng Tiểu Thanh. Nàng là một người con gái tài hoa, nhưng lại phải chịu một số phận bi thảm. Tuy nhiên, tài năng của nàng vẫn còn được lưu truyền đến ngày nay. Điều đó thể hiện sự bất tử của tài năng, đồng thời cũng thể hiện sự tiếc thương, xót xa của tác giả đối với nàng Tiểu Thanh.

Tóm lại, qua hai câu thơ này, ta thấy được tình cảm, thái độ vô cùng xót xa, đồng cảm của tác giả đối với nàng Tiểu Thanh. Ông đã sử dụng những hình ảnh mang tính nhân hóa, tượng trưng để diễn tả nỗi hận của son phấn và sự vương vấn của văn chương. Qua đó, ông muốn bày tỏ sự trân trọng, ngợi ca tài năng của nàng Tiểu Thanh và nỗi xót xa cho số phận bất hạnh của nàng.

Câu 3: Vì sao nhà thơ tự xem mình là người cùng hội với người “phong lưu” thanh lịch, tài hoa nhưng mang nỗi oan lạ lùng? Qua đó, em hiểu thêm điều gì về Nguyễn Du?

Nhà thơ tự xem mình là người cùng hội với người “phong lưu” thanh lịch, tài hoa nhưng mang nỗi oan lạ lùng vì hai lí do chính:

  • Thứ nhất, cả Nguyễn Du và Tiểu Thanh đều là những người tài hoa, có học thức, có tâm hồn nhạy cảm. Nguyễn Du là một đại thi hào của dân tộc, có tài năng văn chương xuất chúng, được mệnh danh là “công tử Bắc Hà, nhất thi hào”. Tiểu Thanh cũng là một người con gái tài năng, có học thức, thông thạo thi ca nhạc họa.
  • Thứ hai, cả Nguyễn Du và Tiểu Thanh đều có số phận bất hạnh, gặp nhiều oan trái. Nguyễn Du trải qua những biến cố lớn trong cuộc đời, phải sống lưu vong, chứng kiến cảnh loạn lạc, đau thương của đất nước. Tiểu Thanh cũng có số phận bi thương, bị ghẻ lạnh, đày đọa đến chết.

Việc Nguyễn Du tự xem mình là người cùng hội với Tiểu Thanh thể hiện sự đồng cảm, sẻ chia của nhà thơ với số phận của nàng. Đồng thời, qua đó, ta cũng hiểu thêm về Nguyễn Du – một người có trái tim nhân hậu, giàu lòng trắc ẩn. Ông luôn dành sự cảm thông, yêu thương cho những người có số phận bất hạnh, nhất là những người tài hoa.

Bên cạnh đó, việc Nguyễn Du tự xem mình là người cùng hội với Tiểu Thanh cũng thể hiện sự tự ý thức về tài năng và số phận của bản thân. Nguyễn Du ý thức được rằng mình là một người tài hoa, có học thức, nhưng cũng có số phận bất hạnh, gặp nhiều oan trái. Chính vì vậy, ông luôn cảm thấy cô đơn, lạc lõng trong cuộc đời.

Có thể nói, qua bài thơ Đọc Tiểu Thanh kí, ta không chỉ hiểu được số phận bất hạnh của Tiểu Thanh mà còn hiểu thêm về Nguyễn Du – một người có trái tim nhân hậu, giàu lòng trắc ẩn, luôn dành sự cảm thông, yêu thương cho những người có số phận bất hạnh, nhất là những người tài hoa.

Câu 4: Phân tích tác dụng của nghệ thuật đối trong bài thơ.

Nghệ thuật đối trong bài thơ “Đọc Tiểu Thanh kí” của Nguyễn Du có tác dụng rất lớn trong việc thể hiện nội dung và nghệ thuật của bài thơ.

Trước hết, nghệ thuật đối giúp làm nổi bật sự tương phản giữa quá khứ và hiện tại. Hai câu thơ đầu:

Tây Hồ hoa uyển tẫn thành khư

Tầng mây diệp rủ bóng u hoài

miêu tả cảnh vật Tây Hồ lúc Tiểu Thanh sống và lúc Tiểu Thanh đã mất. Cảnh vật Tây Hồ lúc Tiểu Thanh sống là một “hoa uyển”, là một vườn hoa tươi đẹp, tràn đầy sức sống. Nhưng lúc Tiểu Thanh đã mất, cảnh vật Tây Hồ lại trở thành “thành khư”, là một gò hoang, hoang tàn, vắng lặng. Sự tương phản này thể hiện sự thay đổi của cuộc đời Tiểu Thanh. Tiểu Thanh vốn là một người con gái tài hoa, xinh đẹp, nhưng cuộc đời nàng lại gặp nhiều bất hạnh. Nàng bị chồng bỏ rơi, phải sống trong sự đau khổ, cô đơn và cuối cùng là chết trong cô quạnh. Sự tương phản giữa quá khứ và hiện tại cũng thể hiện sự xót thương, thương cảm của Nguyễn Du đối với số phận của nàng Tiểu Thanh.

Thứ hai, nghệ thuật đối giúp làm nổi bật sự tương phản giữa số phận của Tiểu Thanh và số phận của những người tài hoa, bạc mệnh. Hai câu thơ thực:

Bất tri tam bách dư niên hậu

Hồi âm khảm đàm nhân gian

nói lên nỗi băn khoăn của Nguyễn Du về số phận của Tiểu Thanh. Ba trăm năm sau, liệu có ai còn nhớ đến nàng? Liệu có ai còn thấu hiểu nỗi đau khổ của nàng? Sự tương phản giữa “ba trăm năm” và “hồi âm”, giữa “khảm đàm” và “nhân gian” thể hiện sự cô đơn, lẻ loi của Tiểu Thanh. Nàng là một người tài hoa, nhưng cuộc đời nàng lại gặp nhiều bất hạnh. Nàng chết đi, nhưng tên tuổi của nàng vẫn mãi bị lãng quên. Sự tương phản này cũng thể hiện sự đồng cảm, xót thương của Nguyễn Du đối với số phận của những người tài hoa, bạc mệnh.

Thứ ba, nghệ thuật đối giúp làm nổi bật tâm trạng của Nguyễn Du. Hai câu thơ luận:

Phong vận kì oan ngã tự cư

Tự ti thành bi ức tự bôi

nói lên tâm trạng của Nguyễn Du khi đọc truyện về Tiểu Thanh. Nguyễn Du coi mình là người cùng hội với Tiểu Thanh, là người cũng gặp phải những bất hạnh trong cuộc đời. Sự tương phản giữa “phong vận kì oan” và “tự ti thành bi”, giữa “tự bôi” và “ức” thể hiện sự xót xa, thương cảm của Nguyễn Du đối với số phận của mình. Nguyễn Du là một người tài hoa, nhưng cuộc đời ông cũng gặp nhiều bất hạnh. Ông bị đày đi Côn Đảo, mất đi người vợ yêu thương, phải chứng kiến cảnh con cái chia lìa. Sự tương phản này cũng thể hiện sự đồng cảm, xót thương của Nguyễn Du đối với những người tài hoa, bạc mệnh nói chung.

Nhìn chung, nghệ thuật đối trong bài thơ “Đọc Tiểu Thanh kí” của Nguyễn Du có tác dụng rất lớn trong việc thể hiện nội dung và nghệ thuật của bài thơ. Nghệ thuật đối giúp làm nổi bật sự tương phản giữa quá khứ và hiện tại, giữa số phận của Tiểu Thanh và số phận của những người tài hoa, bạc mệnh, cũng như tâm trạng của Nguyễn Du. Nghệ thuật đối đã góp phần làm cho bài thơ trở nên sâu sắc, thấm thía và có sức lay động lòng người.

Câu 5: Tác giả gửi gắm tâm sự gì qua hai câu thơ kết?

Hai câu thơ kết của bài thơ “Đọc Tiểu Thanh kí” của Nguyễn Du là:

Son phấn có thần chôn vẫn hận,

Văn chương không mệnh đốt còn vương.

Hai câu thơ này thể hiện tâm sự của tác giả về số phận bất hạnh của những người tài hoa bạc mệnh, đồng thời cũng thể hiện sự trân trọng, ngợi ca giá trị của văn chương.

  • Trước hết, hai câu thơ thể hiện tâm sự của tác giả về số phận bất hạnh của những người tài hoa bạc mệnh.

“Son phấn” là hình ảnh tượng trưng cho vẻ đẹp, sắc đẹp của người phụ nữ. “Chôn vẫn hận” là nỗi hận của người phụ nữ tài hoa bạc mệnh khi phải chôn vùi nhan sắc, tài năng của mình trong cảnh đời bất hạnh. “Văn chương” là hình ảnh tượng trưng cho tài năng, trí tuệ của người nghệ sĩ. “Không mệnh đốt còn vương” là nỗi niềm tiếc thương cho tài năng, trí tuệ của người nghệ sĩ vẫn còn lưu lại hậu thế, bất chấp số phận của họ có bi thương đến đâu.

Hai câu thơ thể hiện sự cảm thông, xót xa của tác giả trước số phận bất hạnh của những người tài hoa bạc mệnh. Nàng Tiểu Thanh là một trong những người tài hoa bạc mệnh ấy. Nàng có sắc đẹp, tài năng nhưng lại phải chịu cảnh truân chuyên, đau khổ. Nàng đã phải chôn vùi nhan sắc, tài năng của mình trong cảnh đời bất hạnh.

  • Tiếp theo, hai câu thơ thể hiện sự trân trọng, ngợi ca giá trị của văn chương.

“Chôn vẫn hận” và “không mệnh đốt còn vương” cho thấy văn chương có sức sống bất diệt, vượt qua cả thời gian và số phận. Văn chương là sản phẩm của tâm hồn, trí tuệ của người nghệ sĩ. Nó phản ánh những tâm tư, tình cảm, suy nghĩ của người nghệ sĩ. Văn chương cũng là một giá trị tinh thần cao đẹp, có tác dụng giáo dục, thức tỉnh con người.

Hai câu thơ thể hiện quan niệm của tác giả về văn chương. Văn chương không chỉ là một hình thức nghệ thuật mà còn là một giá trị tinh thần cao đẹp. Văn chương có sức sống bất diệt, vượt qua cả thời gian và số phận.

Tóm lại, hai câu thơ kết của bài thơ “Đọc Tiểu Thanh kí” của Nguyễn Du là hai câu thơ hay và ý nghĩa. Hai câu thơ thể hiện tâm sự của tác giả về số phận bất hạnh của những người tài hoa bạc mệnh, đồng thời cũng thể hiện sự trân trọng, ngợi ca giá trị của văn chương.

Câu 6: Hãy viết một đoạn văn ngắn (khoảng 10 – 12 dòng) nói lên suy nghĩ của em về tấm lòng nhân đạo của Nguyễn Du qua bài Đọc “Tiểu Thanh kí”.

Đọc “Tiểu Thanh kí” là một trong những sáng tác được nhiều người biết đến, thể hiện sâu sắc tư tưởng Nguyễn Du và đã gây xúc động với em vì tình cảm nhân đạo cao cả của nhà thơ. Bài thơ là những tâm sự của ông, vừa có được sự tương đồng, gần gũi với cuộc đời, tài sắc mà bất hạnh của Tiểu Thanh. Bởi vậy đây được coi là sự kết hợp hài hoà giữa nỗi thương người và sự thương mình, giữa sự xót thương cho kiếp người bạc mệnh và lòng trân trọng ngợi ca những phẩm chất cao đẹp của con người. Đó cũng là một phương diện quan trọng, sâu sắc trong chủ nghĩa nhân đạo của Nguyễn Du. Ông đau nỗi đau của con người, hiểu thấu được nguyên nhân của những bi kịch ấy nhưng cũng bất lực bởi chính ông cũng là nạn nhân của những bể nhuộm cuộc đời đó. Nỗi đau, sự cô đơn, tấm lòng nhân đạo của Nguyễn Du đều xuất phát từ một trái tim nghệ sĩ lớn. Qua đó, em thấy được ông là người giàu tình thương yêu, trân trọng tài năng và vẻ đẹp con người.

Với những hướng dẫn Soạn bài Đọc Tiểu Thanh kí – Sách Cánh Diều Lớp 11 chi tiết như trên. Hy vọng sẽ giúp các bạn nắm được những ý chính của tác phẩm này. Chúc các bạn có những bài soạn thật tốt, để thuận tiện trong quá trình tiếp thu bài giảng.