Soạn bài Chạy giặc
Hướng dẫn Soạn bài Chạy giặc chi tiết, đầy đủ nhất. Thông qua việc thực hành trả lời các câu hỏi trong phần hướng dẫn và bài tập, chúng ta có thể củng cố kiến thức cơ bản về tác phẩm này.
Phần đọc – hiểu văn bản
Câu 1 (trang 49 sgk Ngữ văn lớp 11 Tập 1):
Cảnh đất nước và nhân dân khi bị thực dân Pháp xâm lược
Bài thơ “Chạy giặc” của Nguyễn Đình Chiểu được sáng tác năm 1859, ngay sau khi thực dân Pháp nổ súng tấn công thành Gia Định. Bài thơ đã ghi lại cảnh đất nước và nhân dân ta trong cảnh tang thương, hoang tàn khi bị giặc xâm lược.
Trước hết, cảnh đất nước trong bài thơ hiện lên với sự hoang tàn, đổ nát. Âm thanh “súng Tây” vang lên bất ngờ, đột ngột đã phá tan sự yên bình của cuộc sống thường nhật:
Tan chợ vừa nghe tiếng súng Tây Một bàn cờ thế phút sa tay
“Súng Tây” là một âm thanh lạ lẫm, ghê rợn, gợi ra sự tàn bạo, hủy diệt của giặc. Nó đã khiến cho mọi người kinh hoàng, bàng hoàng, bất ngờ. Chỉ trong một phút chốc, “một bàn cờ thế” đã bị đảo lộn, tình hình đất nước trở nên nguy ngập.
Sau tiếng súng Tây, cảnh đất nước hiện lên với một bức tranh tiêu điều, thê lương:
Nàng ngoảnh lại trông đồ đạc rờn Bóng chim bay vù vù trên lưng
Hình ảnh “nàng ngoảnh lại trông đồ đạc rờn” đã gợi lên nỗi đau đớn, xót xa của người phụ nữ khi phải bỏ lại tất cả tài sản, của cải để chạy giặc. Hình ảnh “bóng chim bay vù vù trên lưng” lại gợi lên sự hoang mang, lo sợ của con người trước sự tấn công của giặc.
Không chỉ cảnh đất nước mà cả nhân dân ta cũng rơi vào cảnh lầm than, khổ sở. Họ phải bỏ nhà cửa, ruộng vườn, chạy trốn giặc. Cảnh tượng ấy hiện lên vô cùng thương tâm:
Bỏ nhà lũ trẻ lơ xơ chạy Mất ổ, đàn chim dáo dác bay
Hình ảnh “lũ trẻ lơ xơ chạy” đã gợi lên sự bơ vơ, lạc lõng của những đứa trẻ khi phải xa gia đình, quê hương. Hình ảnh “đàn chim dáo dác bay” lại gợi lên sự hoảng loạn, sợ hãi của con người khi phải đối mặt với giặc.
Nét đặc sắc trong ngòi bút tả thực của tác giả
Nguyễn Đình Chiểu đã sử dụng ngòi bút tả thực sắc sảo để khắc họa cảnh đất nước và nhân dân ta trong cảnh tang thương, hoang tàn khi bị giặc xâm lược. Ông đã sử dụng các từ ngữ, hình ảnh cụ thể, sinh động để tái hiện lại hiện thực cuộc sống một cách chân thực, khách quan.
Trước hết, tác giả đã sử dụng các từ ngữ gợi tả âm thanh, hình ảnh của thực tại: “súng Tây”, “bóng chim”, “lũ trẻ”, “đàn chim”. Những từ ngữ này đã giúp cho người đọc hình dung rõ nét về cảnh đất nước và nhân dân ta trong cảnh tang thương, hoang tàn.
Bên cạnh đó, tác giả còn sử dụng các biện pháp tu từ như so sánh, nhân hóa để làm cho bức tranh hiện thực thêm sinh động, giàu sức biểu cảm: “một bàn cờ thế phút sa tay”, “nàng ngoảnh lại trông đồ đạc rờn”, “bóng chim bay vù vù trên lưng”, “lũ trẻ lơ xơ chạy”, “đàn chim dáo dác bay”.
Ngòi bút tả thực của Nguyễn Đình Chiểu đã góp phần thể hiện tinh thần yêu nước, căm thù giặc sâu sắc của tác giả. Ông đã lên án mạnh mẽ tội ác của thực dân Pháp, đồng thời kêu gọi nhân dân ta đứng lên kháng chiến, bảo vệ đất nước.
Kết luận
Bài thơ “Chạy giặc” của Nguyễn Đình Chiểu là một tác phẩm văn học yêu nước tiêu biểu của văn học Việt Nam. Bài thơ đã ghi lại cảnh đất nước và nhân dân ta trong cảnh tang thương, hoang tàn khi bị giặc xâm lược. Ngòi bút tả thực sắc sảo của tác giả đã góp phần thể hiện tinh thần yêu nước, căm thù giặc sâu sắc của ông.
Câu 2 (trang 49 sgk Ngữ văn lớp 11 Tập 1):
Trước cảnh nước mất nhà tan, Nguyễn Đình Chiểu đã bày tỏ tâm trạng, tình cảm của mình qua bài thơ “Chạy giặc”.
- Sự bàng hoàng, hoảng hốt
Hai câu đầu của bài thơ đã diễn tả tâm trạng bàng hoàng, hoảng hốt của nhà thơ khi nghe tin giặc Pháp xâm lược:
Tan chợ vừa nghe tiếng súng Tây, Một bàn cờ thế phút sa tay.
“Tiếng súng Tây” là âm thanh bất ngờ, đột ngột, báo hiệu sự xâm lược của giặc Pháp. Nó đã khiến cho cuộc sống yên bình của nhân dân ta bị đảo lộn. Nhà thơ dùng từ “vừa” để nhấn mạnh sự đột ngột, bất ngờ của âm thanh ấy. Nó khiến cho nhà thơ như đang ở trong một giấc mơ, bỗng nhiên bị đánh thức bởi một tiếng động kinh hoàng.
Câu thơ thứ hai “Một bàn cờ thế phút sa tay” đã diễn tả tâm trạng bàng hoàng, hoảng hốt của nhà thơ. Nhà thơ ví nước nhà như một bàn cờ, giặc Pháp là kẻ đi xâm lược, còn quân dân ta là những người chơi cờ. Khi giặc Pháp xâm lược, quân dân ta đã thất bại, khiến cho bàn cờ thế của đất nước ta bị đảo lộn.
- Sự phẫn nộ, căm thù
Sự bàng hoàng, hoảng hốt ban đầu nhanh chóng chuyển sang sự phẫn nộ, căm thù giặc Pháp. Nhà thơ đã dùng những từ ngữ mạnh mẽ, dứt khoát để thể hiện lòng căm thù ấy:
Giặc đến nhà đàn bà cũng đánh, Tướng quân không được thế lui binh.
Câu thơ thứ ba “Giặc đến nhà đàn bà cũng đánh” đã thể hiện tinh thần yêu nước, căm thù giặc sâu sắc của nhà thơ. Trước cảnh giặc xâm lược, nhà thơ không phân biệt nam nữ, già trẻ, ai cũng phải đứng lên đánh giặc.
Câu thơ thứ tư “Tướng quân không được thế lui binh” đã thể hiện sự thất vọng của nhà thơ trước thái độ nhu nhược, hèn nhát của triều đình. Nhà thơ cho rằng, triều đình không có quyết tâm đánh giặc, dẫn đến thất bại, khiến cho nhân dân phải chịu cảnh lầm than.
- Tinh thần yêu nước, bất khuất
Bên cạnh sự phẫn nộ, căm thù, Nguyễn Đình Chiểu còn thể hiện tinh thần yêu nước, bất khuất của mình:
Chẳng may sa cơ thất thế, Lòng son dạ sắt vẫn kiên trung.
Hai câu thơ cuối đã thể hiện ý chí sắt son, kiên trung của nhà thơ. Dù gặp phải thất bại, dù bị giặc bắt, nhưng nhà thơ vẫn giữ trọn tấm lòng son sắt với quê hương, đất nước.
Kết luận
Tâm trạng, tình cảm của Nguyễn Đình Chiểu trong bài thơ “Chạy giặc” là sự kết hợp của nhiều cung bậc cảm xúc khác nhau. Đó là sự bàng hoàng, hoảng hốt, phẫn nộ, căm thù, và cuối cùng là tinh thần yêu nước, bất khuất. Tất cả những cảm xúc ấy đã thể hiện rõ lòng yêu nước, tinh thần đấu tranh chống giặc ngoại xâm của Nguyễn Đình Chiểu.
Câu 3 (trang 49 sgk Ngữ văn lớp 11 Tập 1):
Bài thơ “Chạy giặc” của Nguyễn Đình Chiểu được sáng tác vào năm 1859, ghi lại cảnh tan hoang của đất nước khi thực dân Pháp nổ súng tấn công thành Gia Định. Hai câu thơ kết của bài thơ thể hiện rõ thái độ của nhà thơ trước hiện thực đau thương đó.
Hai câu thơ kết của bài thơ là:
Cờ lau dựng giữa đất trời, Ai nấy lòng tựa cành mai
Cờ lau là biểu tượng của chí khí, tinh thần yêu nước của dân tộc Việt Nam. Hình ảnh cờ lau dựng giữa đất trời thể hiện sự kiên cường, bất khuất của nhân dân ta trước kẻ thù xâm lược. Ai nấy lòng tựa cành mai là hình ảnh ẩn dụ, thể hiện sự vững vàng, kiên định của lòng yêu nước trong mỗi người dân.
Thái độ của nhà thơ trong hai câu thơ kết là:
- Thể hiện sự tin tưởng vào sức mạnh của tinh thần yêu nước của nhân dân ta: Hai câu thơ kết của bài thơ như một lời khẳng định chắc chắn rằng, dù kẻ thù có mạnh mẽ đến đâu, dù đất nước có rơi vào cảnh lầm than đến đâu thì tinh thần yêu nước của nhân dân ta vẫn luôn ngời sáng, kiên cường.
- Là lời kêu gọi mọi người hãy đứng lên đoàn kết, đấu tranh chống giặc cứu nước: Hình ảnh cờ lau dựng giữa đất trời và ai nấy lòng tựa cành mai mang ý nghĩa cổ vũ, động viên mọi người hãy tiếp tục phát huy tinh thần yêu nước, đoàn kết một lòng để đánh đuổi giặc ngoại xâm, giành lại độc lập, tự do cho đất nước.
Tóm lại, hai câu thơ kết của bài thơ “Chạy giặc” đã thể hiện rõ thái độ của nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu trước hiện thực đau thương của đất nước, đồng thời thể hiện niềm tin tưởng vào sức mạnh của tinh thần yêu nước của nhân dân ta.
Với những hướng dẫn Soạn bài Chạy giặc chi tiết như trên. Hy vọng sẽ giúp các bạn nắm được những ý chính của tác phẩm này. Chúc các bạn có những bài soạn thật tốt, để thuận tiện trong quá trình tiếp thu bài giảng.