Soạn bài Cách dẫn trực tiếp và cách dẫn gián tiếp – Ngữ văn 9

     Hướng dẫn soạn bài Cách dẫn trực tiếp và cách dẫn gián tiếp – Ngữ văn 9 chi tiết, đầy đủ nhất. Thông qua việc thực hành trả lời các câu hỏi trong phần hướng dẫn và bài tập, chúng ta có thể củng cố kiến thức cơ bản về tác phẩm này.

I. Cách dẫn trực tiếp
Câu 1: (Trang 53, SGK Ngữ Văn 9 Tập 1)
Trong đoạn trích (a), bộ phận in đậm là lời nói của nhân vật. Nó được ngăn cách với bộ phận đứng trước bằng dấu chấm phẩy.

Cụ thể, câu văn “Cháu Ở liền trong trạm hàng thắng. Bác lái xe bao lần dừng, bóp còi toe toe, mặc, cháu gan lì nhất định không xuống. Ấy thế là một hôm, bác lái phải thân hành lên trạm cháu.” được chia làm ba câu:

  • Câu 1: “Cháu Ở liền trong trạm hàng thắng.”
  • Câu 2: “Bác lái xe bao lần dừng, bóp còi toe toe, mặc, cháu gan lì nhất định không xuống.”
  • Câu 3: “Ấy thế là một hôm, bác lái phải thân hành lên trạm cháu.”

Bộ phận in đậm “Mặc, cháu gan lì nhất định không xuống.” là câu thứ hai trong ba câu trên. Nó được ngăn cách với câu đứng trước bằng dấu chấm phẩy, vì nó có chức năng bổ sung ý cho câu đứng trước.

Câu 2: (Trang 53, SGK Ngữ Văn 9 Tập 1)
Trong đoạn trích (b), bộ phận in đậm là ý nghĩ của nhân vật. Nó được ngăn cách với bộ phận đứng trước bằng dấu hai chấm.

Cụ thể, câu văn “Họa sĩ nghĩ thầm : “Khách tới bất ngờ, chắc cu cậu chưa kịp quét tước dọn dẹp, chưa kịp gấp chăn chẳng hạn” được chia làm hai câu:

  • Câu 1: “Họa sĩ nghĩ thầm.”
  • Câu 2: “Khách tới bất ngờ, chắc cu cậu chưa kịp quét tước dọn dẹp, chưa kịp gấp chăn chẳng hạn.”

Bộ phận in đậm “Khách tới bất ngờ, chắc cu cậu chưa kịp quét tước dọn dẹp, chưa kịp gấp chăn chẳng hạn” là câu thứ hai trong hai câu trên. Nó được ngăn cách với câu đứng trước bằng dấu hai chấm, vì nó có chức năng giải thích, bổ sung ý cho câu đứng trước.

Câu 3: (Trang 53, SGK Ngữ Văn 9 Tập 1)
Cả hai đoạn trích, có thê’ thay đổi vị trí giữa bộ phận in đậm với bộ phận đứng trước nó được không ?

Câu trả lời là có.

Trong đoạn trích (a), bộ phận in đậm “Mặc, cháu gan lì nhất định không xuống.” có thể được đặt ở đầu câu, trước bộ phận “Bác lái xe bao lần dừng, bóp còi toe toe”. Lúc này, câu văn sẽ có dạng:

Mặc, cháu gan lì nhất định không xuống. Bác lái xe bao lần dừng, bóp còi toe toe.

Trong đoạn trích (b), bộ phận in đậm “Khách tới bất ngờ, chắc cu cậu chưa kịp quét tước dọn dẹp, chưa kịp gấp chăn chẳng hạn” có thể được đặt ở cuối câu, sau bộ phận “Họa sĩ nghĩ thầm”. Lúc này, câu văn sẽ có dạng:

Họa sĩ nghĩ thầm: “Khách tới bất ngờ, chắc cu cậu chưa kịp quét tước dọn dẹp, chưa kịp gấp chăn chẳng hạn.”

Tuy nhiên, khi thay đổi vị trí của bộ phận in đậm, ý nghĩa của câu văn sẽ có phần thay đổi.

Trong đoạn trích (a), nếu đặt bộ phận in đậm “Mặc, cháu gan lì nhất định không xuống.” ở đầu câu, thì câu văn sẽ nhấn mạnh vào thái độ gan lì của nhân vật bé Thu.

Trong đoạn trích (b), nếu đặt bộ phận in đậm “Khách tới bất ngờ, chắc cu cậu chưa kịp quét tước dọn dẹp, chưa kịp gấp chăn chẳng hạn” ở cuối câu, thì câu văn sẽ nhấn mạnh vào sự suy nghĩ của nhân vật họa sĩ.

Nhìn chung, việc thay đổi vị trí của bộ phận in đậm trong hai đoạn trích trên không làm thay đổi chức năng của bộ phận đó, nhưng có thể làm thay đổi ý nghĩa của câu văn.

II. Cách dẫn gián tiếp
Câu 1: (Trang 54, SGK Ngữ Văn 9 Tập 1)
Trong đoạn trích (a), bộ phận in đậm là lời nói của nhân vật lão Hạc. Nó không được ngăn cách với bộ phận đứng trước bằng dấu gì.

Cụ thể, câu văn “Lão tìm lời lẽ giảng giải cho con trai hiểu. Lão khuyên nó hãy dặn lòng bỏ đám này, đê dùi giắng lại ít lâu, xem có đám nào khá mà nhẹ tiền hơn sẽ liệu ; chẳng lấy đứa này thì lấy đứa khác ; làng này đã chết hết con gái đâu mà sợ.” được chia làm năm câu:

  • Câu 1: “Lão tìm lời lẽ giảng giải cho con trai hiểu.”
  • Câu 2: “Lão khuyên nó hãy dặn lòng bỏ đám này.”
  • Câu 3: “Để dùi giắng lại ít lâu.”
  • Câu 4: “Xem có đám nào khá mà nhẹ tiền hơn sẽ liệu.”
  • Câu 5: “Chẳng lấy đứa này thì lấy đứa khác.”

Bộ phận in đậm “Để dùi giắng lại ít lâu” là câu thứ hai trong năm câu trên. Nó không được ngăn cách với câu đứng trước bằng dấu gì, vì nó có chức năng bổ sung ý cho câu đứng trước.

Câu 2: (Trang 54, SGK Ngữ Văn 9 Tập 1)
Trong đoạn trích (b), bộ phận in đậm là ý nghĩ của tác giả Phạm Văn Đồng. Giữa bộ phận in đậm và bộ phận đứng trước có từ “nhưng” là từ nối. Có thể thay từ “nhưng” bằng từ “tuy nhiên” hoặc “dẫu vậy”.

Cụ thể, câu văn “Nhưng chớ hiểu lầm rằng Bác sống khắc khổ theo lối nhà tu hành, thanh tao theo kiểu nhà hiền triết ẩn dật.” được chia làm hai câu:

  • Câu 1: “Nhưng chớ hiểu lầm rằng Bác sống khắc khổ theo lối nhà tu hành.”
  • Câu 2: “Thanh tao theo kiểu nhà hiền triết ẩn dật.”

Bộ phận in đậm “Thanh tao theo kiểu nhà hiền triết ẩn dật” là câu thứ hai trong hai câu trên. Nó được ngăn cách với câu đứng trước bằng từ “nhưng” là từ nối, vì nó có chức năng bổ sung ý cho câu đứng trước, đồng thời diễn đạt ý trái ngược với ý của câu đứng trước.

Có thể thay từ “nhưng” bằng từ “tuy nhiên” hoặc “dẫu vậy” để câu văn có thêm sắc thái biểu cảm.

Ví dụ:

Tuy nhiên, chớ hiểu lầm rằng Bác sống khắc khổ theo lối nhà tu hành, thanh tao theo kiểu nhà hiền triết ẩn dật.

Dẫu vậy, chớ hiểu lầm rằng Bác sống khắc khổ theo lối nhà tu hành, thanh tao theo kiểu nhà hiền triết ẩn dật.

III. Luyện Tập
Câu 1: (Trang 54, SGK Ngữ Văn 9 Tập 1)
Trong đoạn trích (a), lời dẫn là câu “A ! Lão già tệ lắm / Tôi ăn Ở với lão như thế mà lão xử với tôi như thế này à?”. Đây là lời nói được dẫn của cục ta. Lời dẫn được dẫn trực tiếp, vì nó được đặt trong dấu ngoặc kép và giữ nguyên hình thức của lời nói được dẫn.

Trong đoạn trích (b), lời dẫn là câu “Cái vườn là của con ta. Hồi còn mồ ma mẹ nó, mẹ nó cô’ thắt lưng buộc bụng, dè sẻn mãi, mới để ra được năm mươi đồng bạc tậu. Hồi ấy, mọi thứ còn rẻ cả…” Đây là ý nghĩ được dẫn của lão Hạc. Lời dẫn được dẫn gián tiếp, vì nó được đặt trong dấu ngoặc kép và không giữ nguyên hình thức của lời nói được dẫn.

Cụ thể, trong đoạn trích (a), Lão Hạc cảm thấy có lỗi với con chó Vàng vì đã bán nó đi để lấy tiền lo cho con trai. Lão Hạc tưởng tượng con chó Vàng trách móc mình, như muốn nói rằng lão là người tệ bạc, đã đối xử với nó như vậy.

Trong đoạn trích (b), Lão Hạc coi cái vườn là của con trai mình, là tài sản lớn nhất để lại cho con trai. Lão Hạc luôn nghĩ đến con trai, lo lắng cho con trai, mong muốn con trai có cuộc sống tốt đẹp hơn.

Câu 2: (Trang 54, SGK Ngữ Văn 9 Tập 1)
a, Đoạn văn nghị luận về ý kiến “Chúng ta phải ghi nhớ công lao của các vị anh hùng dân tộc”

Dẫn trực tiếp

Lịch sử dân tộc Việt Nam là một lịch sử hào hùng, gắn liền với những chiến công hiển hách của các vị anh hùng. Các vị anh hùng đã cống hiến cả cuộc đời, thậm chí là cả tính mạng của mình để bảo vệ đất nước, bảo vệ nền độc lập, tự do của dân tộc. Chính vì vậy, chúng ta phải ghi nhớ công lao của các vị anh hùng dân tộc.

Dẫn gián tiếp

Nhà thơ Tố Hữu đã từng viết:

“Các anh hùng sống mãi với non sông

Như sông núi vững bền ngàn năm”

Câu thơ này đã khẳng định công lao to lớn của các vị anh hùng dân tộc đối với đất nước. Các vị anh hùng đã trở thành biểu tượng của tinh thần yêu nước, ý chí kiên cường, bất khuất của dân tộc Việt Nam.

Phân tích

Công lao của các vị anh hùng dân tộc là vô cùng to lớn. Các vị anh hùng đã chiến đấu anh dũng, hi sinh cả tính mạng để bảo vệ đất nước, bảo vệ nền độc lập, tự do của dân tộc. Nhờ có công lao của các vị anh hùng, đất nước ta mới được độc lập, tự do như ngày hôm nay.

Việc ghi nhớ công lao của các vị anh hùng dân tộc là một nghĩa vụ thiêng liêng của mỗi người dân Việt Nam. Chúng ta cần phải biết ơn, kính trọng các vị anh hùng, học tập và noi theo tấm gương sáng của các vị anh hùng để xây dựng đất nước ngày càng giàu đẹp, văn minh.

Kết luận

Ghi nhớ công lao của các vị anh hùng dân tộc là một hành động thiết thực để thể hiện lòng yêu nước, niềm tự hào dân tộc. Chúng ta cần phải tích cực tuyên truyền, giáo dục cho thế hệ trẻ về công lao của các vị anh hùng dân tộc để họ hiểu rõ về lịch sử hào hùng của dân tộc và phát huy tinh thần yêu nước, ý chí kiên cường, bất khuất của dân tộc.

b, Đoạn văn nghị luận về ý kiến “Giản dị trong lời nói và bài viết” của Chủ tịch Hồ Chí Minh

Dẫn trực tiếp

Nhà văn, nhà thơ, nhà sử học, nhà chính trị lỗi lạc Phạm Văn Đồng đã từng khẳng định:

“Giản dị trong đời sống, trong quan hệ với mọi người, trong tác phong, Hồ Chủ tịch cũng rất giản dị trong lời nói và bài viết, vì muốn cho quần chúng nhân dân hiểu được, nhớ được, làm được.”

Dẫn gián tiếp

Chủ tịch Hồ Chí Minh là một vị lãnh tụ vĩ đại của dân tộc Việt Nam, là người có tấm lòng yêu thương nhân dân sâu sắc. Người luôn quan tâm đến đời sống của nhân dân, luôn mong muốn mọi người đều có cuộc sống ấm no, hạnh phúc. Chính vì vậy, trong lời nói và bài viết của mình, Người luôn sử dụng ngôn ngữ giản dị, dễ hiểu, phù hợp với trình độ của đại đa số nhân dân.

Phân tích

Giản dị trong lời nói và bài viết là một trong những phẩm chất nổi bật của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Người luôn sử dụng ngôn ngữ giản dị, dễ hiểu, gần gũi với đời sống hàng ngày của nhân dân. Lời nói của Người không cầu kì, hoa mỹ, không sử dụng những từ ngữ khó hiểu, khiến người nghe khó tiếp thu. Ngược lại, lời nói của Người ngắn gọn, súc tích, dễ nhớ, dễ làm theo.

Việc sử dụng ngôn ngữ giản dị trong lời nói và bài viết của Chủ tịch Hồ Chí Minh có ý nghĩa vô cùng quan trọng. Nó giúp cho mọi người dễ dàng hiểu được nội dung của lời nói, bài viết của Người. Từ đó, mọi người có thể tiếp thu và thực hiện những lời dạy của Người.

Kết luận

Giản dị trong lời nói và bài viết là một trong những phẩm chất đáng quý của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Phẩm chất này đã góp phần to lớn vào sự nghiệp cách mạng của Người, giúp Người gần gũi với nhân dân, được nhân dân yêu mến, tin tưởng và ủng hộ. Chúng ta cần học tập và noi theo tấm gương giản dị trong lời nói và bài viết của Chủ tịch Hồ Chí Minh để trở thành những người có ích cho xã hội.

c, Đoạn văn nghị luận về ý kiến “Người Việt Nam ngày nay có lí do đầy đủ và vững chắc để tự hào với tiếng nói của mình”

Dẫn trực tiếp

Ngôn ngữ là một trong những yếu tố quan trọng nhất của văn hóa dân tộc. Tiếng Việt là ngôn ngữ của dân tộc Việt Nam, là biểu hiện sinh động của văn hóa Việt Nam. Nhà văn Đặng Thai Mai đã từng khẳng định: “Người Việt Nam ngày nay có lí do đầy đủ và vững chắc để tự hào với tiếng nói của mình”.

Dẫn gián tiếp

Ý kiến này của Đặng Thai Mai là hoàn toàn đúng đắn. Tiếng Việt là một ngôn ngữ giàu đẹp, giàu bản sắc. Tiếng Việt có một lịch sử lâu đời, trải qua quá trình phát triển lâu dài, đã được tôi luyện và trở nên phong phú, uyển chuyển. Tiếng Việt có khả năng biểu đạt phong phú, có thể diễn đạt mọi sắc thái của cảm xúc, tư tưởng. Tiếng Việt cũng là một ngôn ngữ giàu tính nhạc, có thể tạo nên những âm điệu êm ái, du dương.

Phân tích

Tiếng Việt giàu đẹp thể hiện ở nhiều mặt. Về từ vựng, tiếng Việt có một vốn từ phong phú, đa dạng, có thể diễn đạt mọi lĩnh vực của đời sống. Về ngữ pháp, tiếng Việt có hệ thống ngữ pháp chặt chẽ, logic, có khả năng diễn đạt tinh tế, sâu sắc. Về âm vị, tiếng Việt có hệ thống âm vị hài hòa, dễ phát âm, dễ nghe.

Tiếng Việt cũng là một ngôn ngữ giàu bản sắc. Tiếng Việt mang đậm dấu ấn của văn hóa dân tộc Việt Nam. Tiếng Việt là tiếng nói của một dân tộc có lịch sử lâu đời, có nền văn hóa lâu đời và giàu bản sắc. Tiếng Việt cũng là tiếng nói của một dân tộc có tinh thần yêu nước, kiên cường, bất khuất.

Kết luận

Tiếng Việt là một tài sản vô giá của dân tộc Việt Nam. Người Việt Nam ngày nay có lí do đầy đủ và vững chắc để tự hào với tiếng nói của mình. Chúng ta cần phải giữ gìn và phát huy tiếng Việt, sử dụng tiếng Việt một cách đúng đắn, hiệu quả, góp phần xây dựng và phát triển đất nước.

Câu 3: (Trang 55, SGK Ngữ Văn 9 Tập 1)
Hôm sau, Linh Phi đã sử dụng một chiếc túi được làm từ lụa tía để chứa mười hạt minh châu và yêu cầu sứ giả Xích Hỗn đưa Phan ra khỏi nước. Vũ Nương, người được đề cập, cũng đã gửi một bó hoa vàng và nhấn mạnh như sau:

  • Hãy giúp tôi truyền đạt với chàng Trương, nếu chàng còn giữ trong tâm hồn mình chút kí ức về tình yêu xưa và lòng hiếu kỳ về mối quan hệ cũ, tôi mong chàng sẽ tổ chức một cuộc giải oan tại bến sông. Hãy thắp cây đèn thần, để tôi có thể xác nhận và quay trở lại.

     Với những hướng dẫn soạn bài Cách dẫn trực tiếp và cách dẫn gián tiếp – Ngữ văn 9 chi tiết như trên. Hy vọng sẽ giúp các bạn nắm được những ý chính của tác phẩm này. Chúc các bạn có những bài soạn thật tốt, để thuận tiện trong quá trình tiếp thu bài giảng.