Nếu không có những từ ngữ in đậm nói trên thì nghĩa sự việc của câu chứa chúng có khác đi không ? Vì sao ?
a,
b,
Như vậy, các từ ngữ in đậm trong những câu trên có vai trò thể hiện nhận định của người nói đối với sự việc nêu ở trong câu. Nếu không có những từ ngữ này thì nghĩa sự việc của câu sẽ không thay đổi, nhưng sẽ không còn mang sắc thái suy đoán của người nói.
II – Thành phần cảm thán
Câu 1: Các từ ngữ in đậm trong những câu trên có chỉ sự vật hay sự việc gì không ?
Các từ ngữ in đậm trong hai câu trên không chỉ sự vật hay sự việc cụ thể nào. Chúng chỉ là những từ cảm thán, thể hiện cảm xúc của người nói.
Như vậy, các từ ngữ in đậm trong hai câu trên không chỉ sự vật hay sự việc cụ thể nào, mà chỉ là những từ cảm thán, thể hiện cảm xúc của người nói.
Câu 2: Nhờ những từ ngữ nào trong câu mà chúng ta hiểu được tại sao người nói kêu ồ hoặc kêu trời ơi ?
Cụ thể, trong câu văn của Kim Lân, ta có các từ ngữ sau:
Từ ngữ này cho thấy ông Hai đang cảm thấy vui mừng, phấn khởi. Ông Hai đã phải chịu đựng những ngày tháng lo lắng, bất an khi nghe tin làng mình theo giặc. Bây giờ, khi biết tin làng mình vẫn là làng kháng chiến, ông Hai vô cùng vui mừng.
Trong câu văn của Nguyễn Thành Long, ta có các từ ngữ sau:
Từ ngữ này cho thấy bác lái xe đang rất lo lắng, vội vàng. Bác lái xe đang cố gắng hết sức để đưa đoàn khách lên đỉnh Sa Pa trước khi thời gian hết.
Như vậy, nhờ những từ ngữ trong câu mà chúng ta hiểu được tại sao người nói kêu ồ hoặc kêu trời ơi. Những từ ngữ này giúp người đọc hình dung được cảm xúc của người nói trong từng hoàn cảnh cụ thể.
Câu 3: Các từ ngữ in đậm được dùng để làm gì ?
Các từ ngữ in đậm trong hai câu trên là những từ cảm thán, được dùng để biểu lộ cảm xúc của người nói.
Tóm lại, các từ ngữ in đậm trong hai câu trên không chỉ sự vật hay sự việc cụ thể nào, mà chỉ là những từ cảm thán, thể hiện cảm xúc của người nói. Nhờ những từ ngữ đi kèm với các từ cảm thán mà chúng ta hiểu được tại sao người nói kêu ồ hoặc kêu trời ơi. Các từ ngữ in đậm được dùng để biểu lộ cảm xúc của người nói.
III – Luyện Tập
Câu 1: (Trang 19, SGK Ngữ Văn 9 Tập 2)
Nhưng còn cái này nữa mà ông sợ, có lẽ còn ghê rợn hơn cả những tiếng kia nhiều.
b, Chao ôi, bắt gặp một con người như anh ta là một cơ hội hãn hữu cho sáng tác, nhưng hoàn thành sáng tác còn là một chặng đường dài.
c, Trong giờ phút cuối cùng, không còn đủ sức trăng trôi lại điều gì, hình như chỉ có tình cha con là không thể chết được, anh đưa tay vào túi, móc cây lược, đưa cho tôi và nhìn tôi một hồi lâu.
d, Ông lão bỗng ngừng lại, ngờ ngợ như lời mình không được đúng lắm. Chả nhẽ cái bọn Ở làng lại đốn đênh thế được.
Câu 2: (Trang 19, SGK Ngữ Văn 9 Tập 2)
Theo trình tự tăng dần độ tin cậy (hay độ chắc chắn), các từ ngữ trên được xếp như sau:
Giải thích:
Ví dụ:
Câu 3: (Trang 19, SGK Ngữ Văn 9 Tập 2)
Trong câu văn trên, với từ “chắc”, người nói phải chịu trách nhiệm cao nhất về độ tin cậy của sự việc do mình nói ra. Bởi vì “chắc” là từ ngữ thể hiện mức độ tin cậy cao, thể hiện sự tin tưởng ở mức độ tuyệt đối. Người nói tin chắc rằng, với lòng mong nhớ của mình, con anh sẽ chạy xô vào lòng anh, sẽ ôm chặt lấy cổ anh.
Với từ “hình như”, người nói chỉ thể hiện sự suy đoán, phỏng đoán của mình. Người nói không chắc chắn lắm về sự việc sẽ xảy ra.
Với từ “chắc chắn”, người nói cũng thể hiện sự tin tưởng ở mức độ tuyệt đối. Tuy nhiên, “chắc chắn” là từ ngữ mang tính trang trọng hơn “chắc”.
Tác giả Chiếc lược ngà (Nguyễn Quang Sáng) chọn từ “chắc” trong câu văn trên vì ông muốn thể hiện sự mong mỏi, khát khao của ông Sáu đối với tình cha con. Ông Sáu đã xa nhà, xa con hơn hai mươi năm. Khi trở về, ông mong mỏi được gặp lại con, được ôm con vào lòng. Ông tin chắc rằng, tình cha con thiêng liêng sẽ khiến cho bé Thu nhận ra cha mình.
Việc sử dụng từ “chắc” trong câu văn trên cũng góp phần làm nổi bật tình huống truyện, tạo nên sự bất ngờ, xúc động cho người đọc. Khi bé Thu không nhận ra cha, ông Sáu đã vô cùng đau khổ, thất vọng. Ông đã nghĩ rằng, tất cả những mong mỏi, khát khao của mình đều tan biến. Tuy nhiên, cuối cùng, bé Thu cũng nhận ra cha và tình cha con đã chiến thắng mọi nghịch cảnh.
Câu 4: (Trang 19, SGK Ngữ Văn 9 Tập 2)
Cảm xúc của em khi được thưởng thức tác phẩm “Chiếc lược ngà”
Vào một buổi chiều hè, em được cô giáo giới thiệu tác phẩm “Chiếc lược ngà” của nhà văn Nguyễn Quang Sáng. Em đã dành trọn buổi tối hôm đó để đọc tác phẩm.
Em cảm thấy vô cùng xúc động trước tình cảm cha con sâu nặng, thắm thiết của ông Sáu và bé Thu. Ông Sáu là một người chiến sĩ xa nhà đã hơn hai mươi năm. Khi trở về, ông mang theo một nỗi mong nhớ con da diết. Tuy nhiên, bé Thu lại không nhận ra cha mình vì vết sẹo trên mặt. Điều đó đã khiến ông Sáu vô cùng đau khổ và thất vọng.
Em rất khâm phục tình yêu thương con vô bờ bến của ông Sáu. Ông đã dành tất cả tình yêu thương của mình để làm một chiếc lược ngà tặng con. Chiếc lược ngà là minh chứng cho tình yêu thương cao đẹp của cha dành cho con.
Đọc tác phẩm, em cũng cảm thấy xót xa trước số phận của bé Thu. Bé Thu là một cô bé cá tính, bướng bỉnh. Nhưng sau khi nhận ra cha, bé đã dành cho cha một tình yêu thương mãnh liệt. Em ước gì bé Thu có thể gặp lại cha trong một thời gian dài hơn để được yêu thương và bù đắp cho những ngày tháng xa cách.
Tác phẩm “Chiếc lược ngà” đã để lại trong em nhiều ấn tượng sâu sắc. Em cảm thấy vô cùng biết ơn nhà văn Nguyễn Quang Sáng đã sáng tác nên một tác phẩm văn học hay và ý nghĩa như vậy. Em sẽ luôn trân trọng và gìn giữ tác phẩm này.
(Trong đoạn văn này, câu chứa thành phần tình thái hoặc cảm thán là câu “Em cảm thấy vô cùng xúc động trước tình cảm cha con sâu nặng, thắm thiết của ông Sáu và bé Thu.”. Câu này sử dụng thành phần tình thái “vô cùng” để thể hiện cảm xúc xúc động của em khi đọc tác phẩm.)
Với những hướng dẫn soạn bài Các thành phần biệt lập – Ngữ Văn 9 chi tiết như trên. Hy vọng sẽ giúp các bạn nắm được những ý chính của tác phẩm này. Chúc các bạn có những bài soạn thật tốt, để thuận tiện trong quá trình tiếp thu bài giảng.
Bình Luận