Top 5+ mẫu phân tích Tràng Giang hay nhất

Dưới đây là các mẫu bài Phân tích Tràng Giang hay và ngắn gọn, nhằm giúp các em học sinh có thêm tài liệu tham khảo để có thể soạn 1 bài phân tích sao cho hay và ý nghĩa nhất, sau đây là nội dung chi tiết xin mời các bạn tham khảo.

Dàn ý phân tích bài Tràng Giang

Mở bài:

Giới thiệu tác giả Huy Cận: một trong những nhà thơ tiêu biểu của phong trào Thơ mới, với phong cách thơ hàm súc, giàu chất suy tưởng, triết lí.

Giới thiệu bài thơ Tràng Giang: một bài thơ tiêu biểu của Huy Cận, được sáng tác vào năm 1939, in trong tập Lửa thiêng.

Thân bài:

Khổ thơ thứ nhất

Cảnh sông Hồng mênh mông, rộng lớn:

“Sóng gợn Tràng Giang buồn điệp điệp”: sóng nước mênh mông, nối tiếp nhau, gợi cảm giác buồn bã, u sầu.

“Con thuyền xuôi mái nước song song”: thuyền đi giữa dòng nước rộng lớn, song song với dòng chảy, gợi cảm giác cô đơn, nhỏ bé.

“Thuyền về nước lại, sầu trăm ngả”: thuyền và nước ngược chiều, gợi cảm giác chia li, sầu muộn.

“Củi một cành khô lạc mấy dòng”: cành củi khô trôi dạt trên dòng sông, gợi cảm giác cô đơn, lạc lõng, vô định.

Nghệ thuật:

Sử dụng các từ ngữ, hình ảnh gợi buồn, gợi sầu: “Tràng Giang”, “buồn điệp điệp”, “sầu trăm ngả”, “cành khô lạc mấy dòng”.

Sử dụng các biện pháp tu từ: điệp ngữ, đối lập, đảo ngữ,…

Khổ thơ thứ hai

Cảnh cồn bãi hoang vắng, đìu hiu:

“Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu”: cồn nhỏ thưa thớt, gió thổi nhẹ nhàng, gợi cảm giác buồn vắng, quạnh quẽ.

“Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều”: tiếng làng xa vang vọng, gợi cảm giác xa vắng, hoang sơ.

Nghệ thuật:

Sử dụng các từ láy gợi buồn, gợi sầu: “lơ thơ”, “đìu hiu”.

Sử dụng câu hỏi tu từ, gợi cảm giác mơ hồ, xa vắng.

Kết bài:

Khái quát những nét đặc sắc về nội dung, nghệ thuật của bài thơ:

Về nội dung: Bài thơ thể hiện nỗi buồn, sầu muộn của tác giả trước cảnh sông Hồng mênh mông, rộng lớn.

Về nghệ thuật:

Sử dụng ngôn từ, hình ảnh gợi buồn, gợi sầu.

Sử dụng các biện pháp tu từ: điệp ngữ, đối lập, đảo ngữ,…

Bài thơ đã góp phần thể hiện phong cách thơ Huy Cận: hàm súc, giàu chất suy tưởng, triết lí.

Phân tích bài thơ Tràng Giang ngắn nhất

Bài thơ Tràng Giang của Huy Cận là một trong những bài thơ tiêu biểu nhất của phong trào Thơ mới. Bài thơ thể hiện nỗi buồn của một cái tôi cô đơn, lẻ loi trước thiên nhiên mênh mông, hiu quạnh.

Hình ảnh đầu tiên được tác giả phác họa trong bài thơ là hình ảnh sóng gợn trên sông:

Sóng gợn Tràng Giang buồn điệp điệp,

Con thuyền xuôi mái nước song song.

Hình ảnh sóng gợn được sử dụng rất nhiều trong thơ ca, nhưng ở đây, sóng gợn không chỉ đơn thuần là một hình ảnh thiên nhiên mà còn là một biểu tượng của nỗi buồn. Sóng gợn “điệp điệp” gợi lên sự lan toả, nối tiếp của nỗi buồn trong lòng nhà thơ. Con thuyền xuôi mái “song song” trên dòng sông càng tô đậm thêm sự cô đơn, lẻ loi của con người trước thiên nhiên mênh mông.

Ở khổ thơ thứ hai, tác giả tiếp tục miêu tả không gian rộng lớn, hiu quạnh của sông nước:

Thuyền về nước lại sầu trăm ngả,

Củi một cành khô lạc mấy dòng.

Thuyền về nước lại, gợi lên sự chia ly, xa cách. Củi một cành khô lạc mấy dòng, gợi lên sự cô đơn, lạc lõng giữa dòng đời. Hai hình ảnh này càng tô đậm thêm nỗi buồn của nhà thơ trước thiên nhiên mênh mông.

Ở khổ thơ thứ ba, tác giả đã sử dụng thủ pháp tương phản để làm nổi bật nỗi buồn của mình:

Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu,

Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều.

Cồn nhỏ, gió đìu hiu gợi lên sự thưa thớt, tĩnh lặng của cảnh vật. Tiếng làng xa vãn chợ chiều như một tiếng vọng từ xa, càng tô đậm thêm sự vắng lặng, buồn bã của không gian.

Ở khổ thơ cuối cùng, tác giả đã bày tỏ nỗi nhớ quê hương của mình:

Nắng xuống, trời lên sâu chót vót,

Sông dài, trời rộng, bến cô liêu.

Bèo dạt về đâu, hàng nối hàng,

Mênh mông không một chuyến đò ngang.

Không cầu gợi chút niềm thân mật,

Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng.

Lòng quê dợn dợn vời con nước,

Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.

Hình ảnh bến cô liêu, mênh mông, con thuyền, bèo dạt, không cầu, không đò gợi lên nỗi buồn cô đơn, lẻ loi của nhà thơ trước quê hương. Nỗi nhớ quê hương của nhà thơ được thể hiện một cách kín đáo, tinh tế.

Bằng những hình ảnh thơ mang tính biểu tượng, Huy Cận đã thể hiện thành công nỗi buồn của một cái tôi cô đơn, lẻ loi trước thiên nhiên mênh mông, hiu quạnh. Bài thơ cũng là tiếng lòng của những người dân Việt Nam trong thời kì đất nước đang chìm trong đêm tối nô lệ.

Phân tích Tràng Giang 2 khổ đầu

Hai khổ thơ đầu của bài thơ Tràng Giang của Huy Cận đã mở ra một không gian rộng lớn, mênh mông, mang đậm nỗi buồn sầu của tác giả.

Ở khổ thơ đầu, tác giả sử dụng bút pháp chấm phá để gợi ra hình ảnh sông Hồng mênh mông, bát ngát: “Sóng gợn Tràng Giang buồn điệp điệp/Con thuyền xuôi mái nước song song”. Hai từ “Tràng Giang” và “điệp điệp” đã gợi lên vẻ đẹp rộng lớn, mênh mông của sông nước. Hình ảnh con thuyền xuôi mái nước song song gợi lên cảm giác trôi nổi, vô định.

Khổ thơ thứ hai, tác giả tiếp tục miêu tả không gian sông nước bằng những hình ảnh mang đậm nỗi buồn: “Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu/Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều/Nắng xuống, trời lên sâu chót vót/Sông dài, trời rộng, bến cô liêu”. Hình ảnh cồn nhỏ gió đìu hiu gợi lên sự hoang vắng, quạnh hiu của không gian. Tiếng làng xa vãn chợ chiều lại càng tô đậm thêm cảm giác hiu quạnh, vắng lặng. Bầu trời cao rộng, sông dài, bến cô liêu càng làm cho nỗi buồn của tác giả thêm da diết, sâu lắng.

Qua hai khổ thơ đầu, Huy Cận đã sử dụng ngôn ngữ, hình ảnh thơ mang đậm chất cổ điển để gợi lên vẻ đẹp thiên nhiên của sông Hồng. Đồng thời, nỗi buồn sầu của tác giả cũng được thể hiện một cách tinh tế, sâu lắng. Nỗi buồn ấy là nỗi buồn của một tâm hồn cô đơn, lẻ loi, lạc lõng giữa cuộc đời. Đó cũng là nỗi buồn của một thế hệ nhà thơ sống trong thời kì đất nước bị chia cắt, mất nước.

Phân tích Tràng Giang 2 khổ cuối

Hai khổ thơ cuối của bài thơ Tràng Giang của Huy Cận tiếp tục mở ra một không gian rộng lớn, mênh mông, nhưng mang đậm nỗi buồn sầu của tác giả.

Ở khổ thơ thứ ba, tác giả miêu tả cảnh hoàng hôn trên sông Hồng: “Bèo dạt về đâu, hàng nối hàng/Mênh mông không một chuyến đò ngang/Không cầu gợi chút niềm thân mật”. Hình ảnh những đám bèo trôi dạt vô định gợi lên sự cô đơn, lẻ loi, bơ vơ của con người giữa không gian rộng lớn. Sự vắng bóng của chuyến đò ngang và cây cầu gợi lên sự hoang vắng, quạnh hiu của bến sông.

Khổ thơ thứ tư, tác giả miêu tả cảnh hoàng hôn trên bầu trời: “Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng/Làng xa khói tỏa mờ nhân ảnh/Cồn chơ vắng, tiếng vãn chiều thê lương/Cô liêu thân khách trên cồn cỏ”. Hình ảnh những đám mây cao đùn núi bạc gợi lên sự hùng vĩ, tráng lệ của thiên nhiên. Tuy nhiên, nó lại mang đến cảm giác hiu quạnh, hoang vắng. Hình ảnh cánh chim cô đơn bay trong bóng chiều xa lại càng tô đậm thêm nỗi buồn của tác giả. 

Qua hai khổ thơ cuối, Huy Cận đã sử dụng ngôn ngữ, hình ảnh thơ mang đậm chất cổ điển để gợi lên vẻ đẹp thiên nhiên của sông Hồng trong buổi hoàng hôn. Đồng thời, nỗi buồn sầu của tác giả cũng được thể hiện một cách tinh tế, sâu lắng. Nỗi buồn ấy là nỗi buồn của một tâm hồn cô đơn, lẻ loi, lạc lõng giữa cuộc đời. Đó cũng là nỗi buồn của một thế hệ nhà thơ sống trong thời kì đất nước bị chia cắt, mất nước.

Nhìn chung, hai khổ thơ cuối của bài thơ Tràng Giang đã góp phần hoàn thiện bức tranh thiên nhiên sông Hồng mang đậm nỗi buồn sầu của tác giả. Đó là một bức tranh thiên nhiên vừa rộng lớn, hùng vĩ, vừa cô đơn, quạnh hiu. Bức tranh ấy đã thể hiện một cách tinh tế, sâu lắng nỗi buồn sầu của một tâm hồn cô đơn, lẻ loi, lạc lõng giữa cuộc đời.

Phân tích Tràng Giang học sinh giỏi

Huy Cận là một trong những nhà thơ tiêu biểu của phong trào Thơ mới. Thơ ông thường mang âm hưởng buồn, man mác, thấm đẫm nỗi sầu nhân thế. Bài thơ “Tràng Giang” là một trong những bài thơ xuất sắc nhất của ông, được sáng tác vào năm 1939. Bài thơ là bức tranh thiên nhiên sông nước mênh mông, rộng lớn, mang đậm chất buồn, u sầu, thể hiện nỗi sầu nhân thế của tác giả.

Bài thơ mở đầu bằng hình ảnh con sông Hồng mênh mông, rộng lớn:

Sóng gợn Tràng Giang buồn điệp điệp

Con thuyền xuôi mái nước song song

Câu thơ mở đầu bằng hai từ láy “gợn” và “điệp điệp” gợi lên hình ảnh những gợn sóng trên mặt sông Hồng đang nhấp nhô, nối tiếp nhau, trải dài đến tận chân trời. Hình ảnh sóng nước được so sánh với âm thanh “điệp điệp” càng nhấn mạnh thêm sự mênh mông, rộng lớn của con sông. Con thuyền xuôi mái trên dòng sông ấy lại mang một vẻ đẹp “song song”. Hai chữ “song song” gợi lên sự cô đơn, lẻ loi của con thuyền giữa dòng sông rộng lớn, mênh mông.

Câu thơ thứ hai tiếp tục khắc họa hình ảnh con sông Hồng:

Thuyền về nước lại sầu trăm ngả

Củi một cành khô lạc mấy dòng

Thuyền và nước vốn là hai sự vật gắn bó, song trong câu thơ này lại trở nên tách biệt, xa rời nhau. Con thuyền về phía nước, nhưng nước lại trôi theo một hướng khác. Điều này gợi lên sự chia ly, rời xa, khiến cho con người càng thêm sầu não. Hình ảnh “củi một cành khô lạc mấy dòng” càng nhấn mạnh thêm sự cô đơn, lẻ loi của con người giữa dòng đời.

Câu thơ thứ ba mở ra một không gian rộng lớn hơn:

Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu

Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều

Cảnh vật hai bên bờ sông hiện lên thật vắng vẻ, hoang sơ. Những cồn đất nhỏ bé nổi lên giữa dòng sông, gió thổi đìu hiu càng khiến cho cảnh vật thêm buồn bã, hiu quạnh. Tiếng làng xa vãn chợ chiều gợi lên sự vắng lặng, tĩnh mịch của không gian.

Câu thơ thứ tư lại là một bức tranh thiên nhiên đầy chất thơ:

Mây cao chót vót, chim bay lả

Gió thổi tháp chuông khẽ rung lay

Mây cao chót vót, chim bay lả lướt tạo nên một khung cảnh thiên nhiên vừa hùng vĩ, vừa thơ mộng. Gió thổi tháp chuông khẽ rung lay gợi lên sự tĩnh lặng, thanh bình của không gian. Tuy nhiên, trong bức tranh thơ mộng ấy lại thấp thoáng nỗi buồn, sầu não của con người:

Bèo dạt về đâu, hàng nối hàng

Mênh mông không một chuyến đò ngang

Cánh bèo trôi dạt trên dòng sông mênh mông, gợi lên sự vô định, trôi nổi của con người trong cuộc đời. “Không một chuyến đò ngang” càng nhấn mạnh thêm sự cô đơn, lẻ loi của con người.

Câu thơ cuối cùng là một lời than thở, ngậm ngùi của tác giả:

Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng

Lâu đời đất khách quê người

Bờ sông xanh ngắt tiếp giáp với bãi cát vàng, tạo nên một không gian rộng lớn, bao la. Tuy nhiên, không gian ấy lại gợi lên sự hoang vắng, hiu quạnh. Lời than thở “Lâu đời đất khách quê người” thể hiện nỗi buồn, sầu não, cô đơn của tác giả khi phải xa quê hương, đất nước.

Bài thơ “Tràng Giang” của Huy Cận là một bức tranh thiên nhiên sông nước mênh mông, rộng lớn, mang đậm chất buồn, u sầu. Bài thơ thể hiện nỗi sầu nhân thế của tác giả, một nỗi sầu mang đậm dấu ấn thời đại.

Phân tích khổ 3 4 Tràng Giang

Khổ 3, 4 bài thơ “Tràng Giang” của Huy Cận là bức tranh thiên nhiên sông nước mênh mông, rộng lớn, mang đậm chất buồn, u sầu. Qua đó, nhà thơ thể hiện nỗi sầu nhân thế của mình.

Mở đầu khổ thơ thứ ba, tác giả viết:

Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu

Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều

Cảnh vật hai bên bờ sông hiện lên thật vắng vẻ, hoang sơ. Những cồn đất nhỏ bé nổi lên giữa dòng sông, gió thổi đìu hiu càng khiến cho cảnh vật thêm buồn bã, hiu quạnh. Tiếng làng xa vãn chợ chiều gợi lên sự vắng lặng, tĩnh mịch của không gian.

Đến khổ thơ thứ tư, bức tranh thiên nhiên lại trở nên hùng vĩ, thơ mộng:

Mây cao chót vót, chim bay lả

Gió thổi tháp chuông khẽ rung lay

Mây cao chót vót, chim bay lả lướt tạo nên một khung cảnh thiên nhiên vừa hùng vĩ, vừa thơ mộng. Gió thổi tháp chuông khẽ rung lay gợi lên sự tĩnh lặng, thanh bình của không gian. Tuy nhiên, trong bức tranh thơ mộng ấy lại thấp thoáng nỗi buồn, sầu não của con người:

Bèo dạt về đâu, hàng nối hàng

Mênh mông không một chuyến đò ngang

Cánh bèo trôi dạt trên dòng sông mênh mông, gợi lên sự vô định, trôi nổi của con người trong cuộc đời. “Không một chuyến đò ngang” càng nhấn mạnh thêm sự cô đơn, lẻ loi của con người.

Cuối cùng, khổ thơ kết thúc bằng một lời than thở, ngậm ngùi của tác giả:

Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng

Lâu đời đất khách quê người

Bờ sông xanh ngắt tiếp giáp với bãi cát vàng, tạo nên một không gian rộng lớn, bao la. Tuy nhiên, không gian ấy lại gợi lên sự hoang vắng, hiu quạnh. Lời than thở “Lâu đời đất khách quê người” thể hiện nỗi buồn, sầu não, cô đơn của tác giả khi phải xa quê hương, đất nước.

Nhìn chung, khổ 3, 4 bài thơ “Tràng Giang” đã khắc họa thành công bức tranh thiên nhiên sông nước mênh mông, rộng lớn, mang đậm chất buồn, u sầu. Qua đó, nhà thơ thể hiện nỗi sầu nhân thế của mình. Nỗi sầu ấy là nỗi sầu của con người trước cuộc đời vô định, trôi nổi, của con người xa quê hương, đất nước. Nỗi sầu ấy cũng là nỗi sầu mang đậm dấu ấn thời đại, khi đất nước đang chìm trong đêm tối nô lệ.

Phân tích Tràng Giang chi tiết

Phân tích bài thơ Tràng Giang của Huy Cận

Tràng Giang là một trong những bài thơ tiêu biểu của phong trào Thơ mới, được sáng tác vào năm 1939. Bài thơ đã thể hiện một nỗi buồn man mác, sâu lắng của nhà thơ trước cảnh sông nước mênh mông, rộng lớn.

Câu thơ đầu tiên đã mở ra một không gian rộng lớn, bao la của dòng sông:

Sóng gợn Tràng Giang buồn điệp điệp

Cách dùng từ “Tràng Giang” đã gợi lên vẻ đẹp cổ kính, trang trọng của dòng sông. Từ láy “điệp điệp” gợi tả những con sóng nhỏ nối tiếp nhau, vỗ về bờ sông, tạo nên âm thanh đều đặn, trầm buồn.

Câu thơ thứ hai tiếp tục gợi lên vẻ đẹp của dòng sông:

Con thuyền xuôi mái nước xa khơi

Chiếc thuyền nhỏ bé đang xuôi dòng sông, trôi dạt về phía xa xăm, vô định. Hình ảnh đó gợi lên sự cô đơn, lẻ loi của con người trước thiên nhiên rộng lớn.

Khổ thơ thứ hai tiếp tục khắc họa cảnh sông nước mênh mông, bao la:

Lơ thơ cồn nhỏ bé

Bóng chiều sa dợn gợn

Cồn nhỏ bé là hình ảnh đối lập với dòng sông rộng lớn. Cồn nhỏ bé như bị nhấn chìm trong dòng sông mênh mông, gợi lên sự nhỏ bé, mong manh của con người trước thiên nhiên.

Bóng chiều sa là hình ảnh gợi tả thời gian. Bóng chiều sa xuống dòng sông, làm cho cảnh vật trở nên ảm đạm, buồn bã hơn.

Khổ thơ thứ ba gợi lên nỗi buồn của con người trước cảnh sông nước mênh mông:

Lữ khách không về

Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà

Câu thơ đầu tiên gợi lên hình ảnh lữ khách đang đứng trên bờ sông, nhìn dòng sông mênh mông, rộng lớn. Lữ khách không về, không có người thân ở bên cạnh, khiến cho nỗi nhớ nhà càng trở nên da diết, mãnh liệt.

Câu thơ thứ hai là một câu thơ đặc sắc, thể hiện nỗi nhớ nhà của con người. Nỗi nhớ nhà không cần đến khói hoàng hôn, cũng khiến cho con người nhớ nhà da diết.

Khổ thơ cuối cùng khép lại bài thơ bằng một hình ảnh đẹp, nhưng cũng đầy tâm trạng:

Sông dài, trời rộng, bến cô liêu

Mênh mông không một chuyến đò ngang

Không cầu gợi chút niềm thân mật

Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng

Hình ảnh sông dài, trời rộng, bến cô liêu gợi lên sự mênh mông, rộng lớn của thiên nhiên. Hình ảnh bến cô liêu gợi lên sự vắng vẻ, cô đơn của con người.

Câu thơ “Không cầu gợi chút niềm thân mật” thể hiện sự xa cách, cô đơn của con người. Con người không có sự gắn bó, giao lưu với nhau, khiến cho nỗi buồn càng trở nên sâu lắng hơn.

Kết thúc bài thơ, nhà thơ sử dụng hình ảnh “lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng” để gợi lên vẻ đẹp yên bình, tĩnh lặng của thiên nhiên. Tuy nhiên, vẻ đẹp đó cũng gợi lên sự cô đơn, lẻ loi của con người.

Trên đây yêu văn học đã chia sẻ đến quý bạn đọc bài viết Phân tích Tràng Giang. Hy vọng bài viết đã cung cấp những thông tin hay và hữu ích, chúc các bạn có thể chinh phục được những bài văn khó và đạt được điểm cao trong học tập.