nhà cao gợi tả vách đá, và tiếp tục truyền đến người đọc những hình dung về cái tăm tối lạnh lẽo đột ngột khi con thuyền đi từ ngoài vào khúc sông có đá hun hút dựng vách thành qua hình ảnh so sánh về “một khung cửa sổ nào trên cái tầng thứ mấy nào vừa tắt phụt đèn điện”.
Nếu những câu văn trên gây ấn tượng với người đọc bởi vẻ đẹp hùng vĩ của sông Đà, thì những câu văn tiếp theo, lại gây ấn tượng về sự hung bạo của sông Đà quãng mặt ghềnh Hát Loóng: “dài hàng cây số nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió, cuồn cuộn luồng gió gùn ghè suốt năm như lúc nào cũng đòi nợ xuýt bất cứ người lái đò Sông Đà nào tóm được quả đấy”. Câu văn có nhịp ngắn, nhanh, dồn dập kết hợp với các thanh sắc, những từ ngữ trùng điệp nối tiếp thế chỗ nhau trong các cụm từ ngữ đã tái hiện một cách sinh động sự dữ dội đến hung bạo của con sông qua hình ảnh nước, sóng, gió, và đá sông Đà. Mặt nước sông Đà quãng này cuồn cuộn những con sóng dữ vút lên, chồm lên nhau tạo cảm giác ghê rợn, hãi hùng. Từ láy “gùn ghè” kết hợp hình ảnh so sánh mang đậm sắc thái nhân hóa về việc sóng gió trên mặt ghềnh Hát Loóng “lúc nào cũng đòi nợ xuýt” bất cứ người lái đò sông Đà nào qua đây đã khiến người đọc hình dung rõ nét sự hung hãn, lì lợm, cuồng bạo của dòng sông Tây Bắc. Đem lại những ấn tượng mạnh mẽ hơn nữa là hình ảnh những cái hút nước ở quãng Tà Mường Vát: “.. Những cái hút nước giống như cái giếng bê tông thả xuống sông để chuẩn bị làm móng cầu. Nước ở đây thở và kêu như cửa cống cái bị sặc. Trên mặt cái hút xoáy tít đáy, cũng đang quay lừ lừ những cánh quạ đàn”. Hàng loạt những so sánh sống động, đặc sắc khiến hút nước thiện ra khi mang hình hài của một “cái giếng bê tông” xoáy tít, khi trong âm thanh của một “cửa cống cái bị sặc”, khi là hình ảnh và âm thanh khi mặt nước bị “rót dầu sôi”.
Ngoài ra, các từ láy tượng hình “lừ lừ”, tượng thanh tăng nghĩa “ặc ặc” cùng những chi tiết so sánh kết hợp nhân hóa “thở và kêu như cửa cống cái bị sặc”.. tất cả góp phần làm hiện ra cả hình ảnh và âm thanh của hút nước như một quái vật đang trong cơn giận dữ cuồng loạn sẵn sàng gieo chết chóc cho con người. Nên không phải ngẫu nhiên mà Nguyễn Tuân lại điểm vào chi tiết những cánh quạ đàn quay lừ lừ.. Chẳng phải đó là hình ảnh gợi lên sự chết chóc hay sao?
Sự nguy hiểm của hút nước sông Đà khiến “không thuyền nào dám men gần những cái hút nước ấy, thuyền nào qua cũng trèo nhanh để lướt quãng sông, y như là ô tô sang số nhấn ga cho nhanh để vút qua một quãng đường mượn cạp ra người bờ vực”. Giữa chốn núi rừng hoang sơ, Nguyễn Tuân đã thổi vào không khí của phố thị khi so sánh chiếc thuyền với ô tô, đoạn sông có những cái hút nước với quãng đường mượn cạp ra ngoài bờ vực. Từ đó khẳng định những cái hút nước này chính là mối đe dọa mà bất cứ ai cũng phải sợ, phải thật điêu luyện, thật bình tĩnh nhưng nhanh chóng mới có thể “thoát chết” khi đi ngang qua đây.
Nhà văn còn phát huy trí tưởng tượng phong phú khi hình dung ra những bè gỗ to lớn nghênh ngang bị “lôi tuột xuống” đáy hút nước, hay “những chiếc thuyền đã bị cái hút nó hút xuống, thuyền trồng ngay cây chuối ngược rồi vụt biến đi, bị dìm và đi ngầm dưới lòng sông đến mươi phút sau mới thấy tan xác ở khuỷu sông dưới”.
Bằng những quan sát tỉ mỉ, tinh tường, kết hợp cách dùng hàng loạt động từ “lôi”, “hút”, “trồng”, “dìm”, “đi ngầm”, “tan xác”.. Nguyễn Tuân đã diễn tả hình ảnh chiếc thuyền bị hút nước nuốt chửng một cách đáng sợ. Con sông mang trên mình những cái hút nước khổng lồ ấy khiến ta hình dung nó chẳng khác nào một loài thủy quái hung bạo, dữ dằn. Nó sẵn sàng nuốt tất cả mọi thứ vào lòng sâu của cái chết. Con thủy quái ấy cứ như chỉ chờ có thuyền nào qua là lôi tuột, nuốt chửng con thuyền tội nghiệp cho hả cơn giận dữ.
Sự miêu tả như thế kể cũng đã kỳ thú lắm, nhưng vẫn còn chưa khiến ta phải thán phục, phải ghê gớm cho tài nghệ của Nguyễn Tuân như trong những câu cuối đoạn này: “Tôi sợ hãi mà nghĩ đến một anh bạn quay phim táo tợn [..] chiếc lá rừng bị bứt vào một cái cốc pha lê nước khổng lồ vừa rút lên cái gậy đánh phèn”.
Như vậy, không dừng lại trong những liên tưởng, tưởng tượng về cái bè gỗ hay một con thuyền bất hạnh nào đó phải làm mồi cho hút nước, Nguyễn Tuân còn tạo ra một giả tưởng ly kỳ đưa người đọc vào trò chơi cảm giác, kéo họ xuống tận đáy hút nước xoáy tít, sâu hoắm cùng một anh bạn quay phim táo tợn. Hút nước vì thế đã được miêu tả bằng thủ pháp điện ảnh, khi nhà văn hình dung đến cảnh quay của người nghệ sĩ quay phim ấy khi anh dũng cảm ngồi trên chiếc thuyền thả mình vào hút nước rồi hất ngược ống quay lên ghi lại những thước phim sống động mà rùng rợn. Thước phim chân thật từng chi tiết, từ hình khối của “một thành giếng xây toàn bằng nước” cho đến màu sắc của dòng sông “nước xanh ve”, và thậm chí cho đến cả cảm giác sợ hãi của con người khi phải đứng trong lòng một “khối pha lê xanh như sắp vỡ tan”, bất cứ lúc nào cũng như sắp đổ ụp vào người.
Một sức bút bình thường làm sao có nổi một cái so sánh vừa chính xác, tinh tế, lại vừa bất ngờ và lạ lùng đến thế. Dõi theo từng câu chữ Nguyễn Tuân, chắc hẳn nhiều người trong số chúng ta sẽ nhận ra mình nghèo nàn biết bao nhiêu cả về từ ngữ và ý tưởng. Phải chăng khi viết những câu văn này, Nguyễn Tuân đã phải luôn lục lọi đến tận cùng kho cảm giác và liên tưởng phong phú, bộn bề, nhằm tìm ra những chữ nghĩa chính xác nhất, có khả năng động người đọc nhiều nhất.
Nguyên Tuân từng viết: “Giàu ngôn ngữ thì văn sẽ hay.. Cũng cùng một vốn ngôn ngữ ấy nhưng sử dụng có sáng tạo thì văn sẽ có bề thế và kích thước. Có vốn mà không biết sử dụng chỉ như nhà giàu giữ của. Dùng chữ như đánh cờ tướng, chữ nào để chỗ nào phải đúng vị trí của nó. Văn phải linh hoạt. Văn không linh hoạt gọi là văn cứng đơ thấp khớp”. Với một quan niệm nghệ thuật như thế, Nguyễn Tuân đã mang đến một áng văn bề thế và độc đáo, sắc sảo và uyên bác. Một áng văn chỉn chu, trau chuốt đến từng câu chữ. Đoạn văn trên chính là minh chứng cho quan niệm “khắt khe” của Nguyễn Tuân về nghệ thuật, cũng là thành quả ngọt ngào của cả quá trình “rèn chữ” khổ luyện công phu.
Bằng các thủ pháp đối lập, nhân hóa, so sánh, những liên tưởng, tưởng tượng táo bạo, bất ngờ, cùng hệ thống ngôn từ giàu có, phong phú, và sự uyên bác trong kiến thức lịch sử, thơ ca, hội họa, quân sự, thể thao.. đoạn trích trên đã giúp người đọc hình dung ra vẻ đẹp hùng vĩ, dữ dội của sông Đà vùng thượng nguồn . Đằng sau hình tượng dòng sông mà ông dụng công tạo tạc ấy là tình yêu tha thiết mà Nguyễn Tuân dành cho thiên nhiên và con người Tây Bắc. Bởi tác phẩm nghệ thuật chân chính bao giờ cũng là là kết quả của tình yêu lớn lao.
Đồng thời, đoạn trích còn thể hiện những nét độc đáo trong quan niệm về cái đẹp của Nguyễn Tuân: Dù trước hay sau cách mạng, Nguyễn Tuân luôn nhìn sự vật ở phương diện văn hóa, thẩm mỹ. Với cách nhìn này, sông Đà trong mắt ông hiện lên như một kỳ quan của tạo hóa. Nguyễn Tuân còn quan niệm cái đẹp phải gây ấn tượng mạnh. Vì vậy, trong đoạn trên, ông đã miêu tả dòng sông Tây Bắc vùng thượng nguồn không còn là thực thể vô tri vô giác mà hung bạo, dữ dằn như mang tâm địa của một loài thủy quái. Đã trữ tình thì phải trữ tình đến độ đằm thắm, say mê, đã dữ dằn thì phải dữ dằn đến độ truyền cả cảm giác ghê sợ, hãi hùng đến cho người đọc. Bởi Nguyễn Tuân không chấp nhận sự dễ dãi trong cách xây dựng hình tượng, nên cái đẹp trong trang văn của ông cũng không nhàn nhạt, lờ mờ mà phải là tuyệt mĩ. Để tạo nên ấn tượng đó, Nguyễn Tuân đã tung ra đạo binh ngôn từ hùng hậu cùng tất cả sự tài hoa, uyên
bác trong ngòi bút của mình.
Mẫu 3
Nguyễn Tuân là một người nghệ sĩ tài hoa, ông có sở trường về tùy bút. Sông Đà là tập tùy bút hay nhất của Nguyễn Tuân viết về cảnh và người Tây Bắc, là kết quả của chuyến đi thực tế Tây Bắc năm 1958 của nhà văn. Ở Tây Bắc, ông sống với bộ đội, thanh niên xung phong, công nhân làm đường và đồng bào các dân tộc ít người. Thực tiễn xây dựng cuộc sống mới ở vùng cao đã mang lại cho Nguyễn Tuân nguồn cảm hứng sáng tạo dồi dào. Phong cảnh Tây Bắc dưới ngòi bút Nguyễn Tuân vừa hùng vĩ uy nghiêm, vừa tuyệt vời, thơ mộng. Trong bài Người lái đò sông Đà rút từ tập tùy bút Sông Đà, nhà thơ không chỉ ca ngợi vẻ đẹp của thiên nhiên mà còn hết lời ngợi ca vẻ đẹp của con người Tây Bắc, nhất là những người lái đò trên con sông dữ dội và thơ mộng ấy.
Vẻ đẹp của nhân vật người lái đò trong bài tùy bút này được bộc lộ ở nhiều góc cạnh khác nhau .Trong tùy bút, hình ảnh sông Đà hiện lên thật hung ác :“ Lúc này nước sông Đà reo như đun sôi lên một trăm độ muốn hất tung đi một cái thuyền đang phải đóng vai một cái nắp ấm của một ấm nước sôi khổng lồ. Ngấn mạn thuyền thấp hơn ngấn nước tư vi bên ngoài, cạp mui thuyền cắm ngập dưới ngấn nước đang sôi trắng lên. Mặt sông cũng có ổ gà như mặt đường kạn, đi vào ổ gà sông là thuyền bị giật xuống bị dồn lên. Đã gọi là thác, tức là chỗ khúc sông phức tạp có nhiều luồng nước. Có luồng nước đi lầm vào thì chết ngày, có luồng nước đi vào đúng luồng rồi nhưng mà không trúng tim luồng thì cũng vẫn hoàn toàn có thể là thập tử nhất sinh như thường … ” .Nhưng hình ảnh sông Đà hiện lên không kém phần thơ mộng, trữ tình :“ Tôi có bay tạt qua sông Đà mấy lần, và thấy đó cũng là thêm cho mình một góc nhìn nhìn một cách nhìn về con sông Tây Bắc hung bạo và trữ tình … ” ; “ Con sông Đà tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc, chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn mù khói núi Mèo đốt nương xuân. Tôi đã nhìn say sưa làn mây mùa xuân bay trên sông Đà, tôi đã xuyên qua đám mây mùa thu mà nhìn xuống dòng nước sông Đà. Mùa xuân dòng xanh ngọc bích, chứ nước sông Đà không xanh màu xanh canh hến của sông Gâm, sông Lô. Mùa thu nước sông Đà lừ lừ chín đỏ như da mặt người bầm đi vì rượu bữa, lừ lừ cái màu đỏ tức giận ở một người bất mãn tức bực gì mỗi độ thu về. Chưa hề khi nào tôi thấy dòng sông Đà là đen như thực dân Pháp đã đè ngửa con sông ta ra đổ mực Tây vào mà gọi bằng một cái tên Tây láo lếu, rồi cứ thế mà phết vào map … ” .Hình ảnh con sông Đà vừa “ hung bạo và trữ tình ” là cái nền để người lái đò Open. Ông lái đò là người anh hùng sông nước : trong cuộc chiến đấu gay go với con sông dữ, ông là người chỉ huy tài ba, trí dũng, can trường. Vượt qua hết những vực xoáy, luồng chết, cửa tử, … để đưa con đò đến nơi sóng yên nước lặng. Về tư thế : “ ông đò hai tay giữ mái chèo khỏi bị hất lên khỏi sóng trận địa phóng thẳng vào mình ”, về phong thái : “ tỉnh táo, tự tin, cố nén vết thương do sóng nước gây ra ”, về hành vi : “ hai chân vẫn kẹp chặt lấy cuống lái ”, “ đánh đòn tỉa ”, “ đánh đòn âm vào chỗ hiểm ”. Sau khi “ phá xong cái trùng vi thạch trận, vòng thứ nhất ”, ông không một phút “ nghỉ tay nghỉ mắt ”, phá luôn vòng vây thứ hai và đổi luôn “ giải pháp “. Khi nắm chặt lấy được cái bờm sóng đúng luồng rồi, ông “ ghì cương lái, bám chắc lấy luồng nước đúng mà phóng nhanh vào cửa sinh, mà lái miết một đường chéo về phía cửa đá ấy ”. Thế là những luồng tử đã “ bỏ hết lại sau thuyền. Chỉ còn vẳng reo tiếng hò của sóng thác luồng sinh ”. Sau đó, ông bước vào trận chiến với “ một trùng vây thứ ba ”. Ông liền “ phóng thẳng thuyền, chọc thủng cửa giữa ” có bọn đá hậu vệ của con thác. Rồi “ vút, vút, cửa ngoài, cửa trong, lại cửa trong cùng, thuyền như một mũi tên tre xuyên nhanh qua hơi nước, vừa xuyên vừa tự động hóa lái được, lượn được ”. Thế là hết thác. Sóng nước lại thanh thản .Hơn nữa, ông lái đò còn là nghệ sĩ tài hoa. Trong nghề chèo đò vượt thác, ông lái đò đã nắm chắc binh pháp của thần sông, thần đá. Ông đã thuộc quy luật phục kích của lũ đá nơi ải nước hiểm trở. Ở vòng đầu lũ đá ấy đã mở ra năm cửa trận, có bốn cửa tử, một cửa sinh, cửa sinh nằm lập lờ phía tả ngọn sông nhưng ông đã thuộc lòng những cửa này. Ở vòng thứ hai, cửa tử tăng lên để đúng lừa con thuyền của ông vào, và cửa sinh lại sắp xếp lệch qua phía bờ hữu ngạn nhưng ông vẫn cứ hiểu được điều nguy khốn ấy. Ông mày mò ra cách chinh phục chúng : cưỡi lên thác sông Đà, phải cưỡi đến cùng như thể cưỡi hổ. Khi bốn năm bọn thủy quân cửa ải nước bên bờ trái liên xô ra định níu thuyền lôi vào tập đoàn lớn cửa tử, nhờ nhớ mặt bọn này nên đứa thì ông tránh mà rảo bơi chèo lên, đứa thì ông đè sấn lên mà chặt đôi ra để mở đường tiến, ở trùng vây sau cuối, mặc dầu ít cửa hơn nhưng ông nhận ra rằng ở bên phải bên trái đều là luồng chết cả, lại ở ngay giữa bọn đá hậu vệ của con thác. Cho nên, ông dùng đòn “ phóng thẳng ”. Thế là ông thắng lợi trọn trong cuộc đi qua cửa ải nước đủ tướng dữ, quân tợn vừa qua. Đúng như nhà văn Nguyễn Tuân nhận xét, ông lái đò là một “ tay lái ra hoa ” .Còn cô lái đò là một người phụ nữ Nước Ta yêu nước tha thiết, đảm đang, tháo vát, tâm hồn dạt dào xúc cảm và tràn ngập chất thơ : “ … Một buổi chiều Quỳnh Nhai khác, tôi lại tìm đến một cô lái đò đã từng chở đò dọc đưa gạo kháng chiến từ Quỳnh Nhai về thác Tà Hè đổ lên kho quân lương. Cô lái đò châu Quỳnh Nhai giảng cho tôi hiểu biết thêm về ý nghĩa kiến trúc của cái thuyền then vuốt đuôi én trên sông Đà : “ Các anh bảo thuyền giống con cá, bảo cái thuyền như một con cá nó quẫy mạnh đuôi trên mặt sông thì cũng được thôi. Chúng em chỉ biết cái đuôi thuyền nó vẫy lên cao như thế để có cái chỗ mà treo cái bu gà. Gà sống này, con nào đẹp lông và gáy hay, thì phải mua đến mười đồng bạc mới. Con gà sống là cái đồng hồ đeo tay của người lái đò sông Đà đấy. Đi đường xa, qua bờ này bến khác, có tiếng gà gáy đem theo, nó đỡ nhớ nương ruộng bản mường mình. Hai bên bờ sông Đà, ai ai cũng biết hát cả đấy. Đang phát nương, nhìn xuống dòng sông Đà mà thấy thuyền những eng đi qua, là người phụ nữ Thái chúng em đều hát gửi xuống một hai câu và có khi hát cả một bài. Hồi Pháp chiếm đóng, tiếng hát của phụ nữ đều lánh xa bờ xa bến. Nhiều tiếng hát chạy xa lên tận đỉnh núi. Nay độc lập, hết địch rồi tiếng hát mới lại xuống dần tới mặt bên … ” .Nhìn chung, thẩm mỹ và nghệ thuật miêu tả nhân vật của Nguyễn Tuân rất tài hoa. Nhà văn lược bỏ hầu hết những chi tiết cụ thể về đời tư của ông lái đò, cô lái đò để đi sâu khắc họa ngoại hình, hành vi của nhân vật .Chúng ta thử so sánh nhân vật người lái đò với nhân vật Huấn Cao ( Chữ người tử tù ). Nhân vật Huấn Cao trong truyện Chữ người tử tù của Nguyễn Tuân là một con người tài hoa, khí phách hiên ngang quật cường, “ thiên lương ” trong sáng. Huấn Cao viết chữ rất đẹp : “ Chữ ông Huấn Cao đẹp lắm, vuông lắm ( … ). Có được chữ ông Huấn mà treo là có một bảo vật trên đời ”. Trong thị hiếu nghệ thuật và thẩm mỹ của cố nhân, từ Nước Trung Hoa đến Nước Ta, viết chữ đẹp là một thủ pháp nghệ thuật và thẩm mỹ và chơi chữ đẹp là một thú chơi cao khiết, thanh nhã. Bởi vậy, qua những do dự, giám sát, mưu mẹo, biệt đãi, nhẫn nhục, đau khổ, hoảng loạn, hy vọng, vô vọng, hoảng sợ, lúng túng, tôn kính của viên quản ngục thì cái tài hoa quý và hiếm của nhân vật Huấn Cao càng được tôn lên đỉnh điểm chói lọi .Về khí phách, Huấn Cao không chịu vào luồn ra cúi, không chịu sống cảnh “ cá chậu chim lồng ”, ông đi làm giặc triều đình. Đến khi bị bắt đưa vào ngục tử tù, ông không tỏ ra mảy may sợ hãi hay hụt hẫng. Cổ mang gông, chân vướng xiềng, bước vào ngục tử tù chờ ngày ra pháp trường, ông vẫn hiên ngang, đường hoàng như bước tiến trên đường cái. Chính cái khí phách khác thường của ông đã làm cho nguc quan – một người đầy uy quyền so với ông – phải tỏ ra “ khép nép ” khi vào gặp ông tại nhà lao. “ Thiên lương ” của ông vô cùng trong sáng : cái tài của Huấn Cao chính là nơi phát lộ cái tâm của ông. Tiền bạc, uy quyền không hề lung lạc được ông : “ Ta nhất sinh không vì vàng ngọc hay quyền thế mà ép mình viết câu đối khi nào ”. Ông đúng là một nhân cách lí tưởng : “ Bần tiện bất năng di, phong phú bất năng dâm, uy vũ bất năng khuất ” .Vì vậy, khi chưa hiểu được những phẩm chất tốt đẹp của ngục quan ( biết trân trọng, thật lòng yêu cái đẹp dù phải sống trong thực trạng xấu xa ) thì Huấn Cao có thái độ cứng rắn với ông. Đến lúc cảm được “ cái tấm lòng biệt nhỡn liên tài ” của ngục quan, Huấn Cao mềm lòng thốt lên : “ Nào ta biết đâu một người như thầy quản đây và lại có những sở trường thích nghi cao quý như vậy. Thiếu chút nữa, ta phụ mất một tấm lòng trong thiên hạ ”. Và Huấn Cao sẵn sàng chuẩn bị cho nguc quan những dòng chữ sau cuối của một đấng tài hoa, một bậc anh hùng nghĩa sĩ trong một cảnh tượng “ lâu nay chưa từng có ở chốn lao tù ” : “ Đêm hôm ấy, lúc trại giam tỉnh Sơn chỉ còn vẳng có tiếng mõ trên vọng canh, một cảnh tượng lâu nay chưa từng có, đã bày ra trong một buồng tối chật hẹp, khí ẩm, tường đầy mạng nhện rác rưởi, đất bừa bãi phân chuột, phân gián. Trong một không khí tỏa như đám cháy nhà, ánh sáng đỏ rực của một bó đuốc tẩm dầu rọi lên ba cái đầu người đang chú ý trên một tấm lụa bạch còn nguyên vẹn lần hồ. Khói bốc tỏa cay mắt, làm họ dụi mắt lia lịa. Một người tù, cổ đeo gông, chân vướng xiềng đang đậm tô nét chữ trên một tấm lụa trắng tinh căng trên mảnh ván. Người tù viết xong một chữ, viên quản ngục lại vội khúm núm cất những đồng xu tiền kẽm lưu lại ô chữ đặt trên phiến lụa óng. Và cái thầy thơ lại gầy gò, thì run run bưng chậu mực. Thay bút con, đề xong lạc khoản, ông Huấn Cao thở dài, buồn bã đỡ viên quản ngục đứng thẳng người dậy và đĩnh đạc bảo :“ Ở đây lẫn lộn. Ta khuyên thầy Quản nên thay chốn ở đi. Chỗ này không phải là nơi để treo bức lụa trắng với những nét vuông tươi tắn nó nói lên cái tham vọng tung hoành của một đời con người. Thoi mực, thầy mua ở đâu mà tốt và thơm quá vậy. Thầy có thấy mùi thơm ở chậu mực bốc lên không ? … Tôi bảo thực đấy, thầy Quản nên tìm về nhà quê mà ở đà, thầy hãy thoát khỏi cái nghề này đi đã, rồi hãy nghĩ đến chuyện chơi chữ. Ở đây, khó giữ thiên lương cho lành vững và rồi cũng đến nhem nhuốc mất cả đời lương thiện đi ” .Lửa đóm cháy rừng rực, lửa rụng xuống nền đất ẩm phòng giam, tàn lửa tắt nghe xèo xèo. Ba người nhìn bức châm, rồi lại nhìn nhau. Ngục quan cảm động, vái người tù một vái, chắp tay nói một câu mà dòng nước mắt rỉ vào kẽ miệng làm cho nghẹn ngào : “ Kẻ mê muội này xin bái lĩnh ” .Đoạn văn tả cảnh Huấn Cao cho chữ trên đây thể hiện toàn vẹn nhất vẻ đẹp sáng ngời của nhân cách Huấn Cao. Trong không khí sang trọng và quý phái, thiêng liêng, trong cảm hứng phát minh sáng tạo mãnh liệt, mê say, ông Huấn Cao đã quên hẳn gông xiềng, nhà ngục chật hẹp, tối tăm, khí ẩm, quên cả cái chết đang chờ đón mình. Tâm hồn ông trọn vẹn hướng tới sự bất tử của cái đẹp, cái “ thiên lương ” trong sáng. Lời khuyên nhủ của ông so với quản ngục đã biểu lộ ý niệm biện chứng của ông giữa cái tâm và cái tài, giữa cái đẹp và cái thiện. Trong nhân sinh quan cao vời của ông, người nghệ sĩ mê hồn cái đẹp trước hết phải là người phải biết đặt “ thiên lương ” lên vị trí tột cùng. Lời di huấn thiêng liêng ấy của Huấn Cao về thẩm mỹ và nghệ thuật, về đạo lý làm người đã được quan ngục bái lĩnh bằng toàn bộ tấm lòng chân thực của mình và người đời trân trọng lắng nghe. Có thể nói, cảnh ông Huấn Cao cho chữ là sự thắng lợi kiêu hùng của ánh sáng so với bóng tối, của “ thiên lương ” so với tội ác, của cái chân – thiện – mỹ đối với cái xấu xa, thô bỉ. Hơn nữa, đó còn là hình tượng của việc cài hoa lên ngôi trong cảnh lao tù. Người tử tù đang tiến dần đến cõi chết, nhưng còn tài hoa của họ đang nhiệt huyết, từ tốn bước vào cõi bất tử, vĩnh hằng .Nhìn chung, vẻ đẹp của hình tượng Huấn Cao là vẻ đẹp lãng mạn, có sức chinh phục, cảm hóa mãnh liệt so với những con người có tấm lòng “ biệt nhỡn liên tài ” .Từ việc tìm hiểu và khám phá vài nét về vẻ đẹp hình tượng của nhân vật Huấn Cao tất cả chúng ta dễ thấy được chỗ thống nhất và độc lạ trong cách tiếp cận con người của Nguyễn Tuân trước và sau Cách mạng tháng Tám. Về nét chung ( tính thống nhất ) : Nguyễn Tuân vẫn tiếp cận con người ở phương diện tài hoa, nghệ sĩ. Ông vẫn là ngòi bút tài hoa, uyên bác, lịch sự, vận dụng tri thức tổng hợp của nhiều ngành văn hóa truyền thống, thẩm mỹ và nghệ thuật khác nhau trong miêu tả và biểu lộ : điện ảnh, hội họa, điêu khắc .. Ông vẫn sử dụng vốn ngôn từ rất là tinh lọc, phong phú và đa dạng, độc lạ, giàu sang. Khả năng tổ chức triển khai câu văn xuôi đầy giá trị tạo hình, có nhạc điệu trầm bổng, biết co duỗi uyển chuyển. Mặt khác, những phép ví von, so sánh, ẩn dụ, hoán dụ, nhân hóa, tượng trưng, đối ngữ, liệt kê … được nhà văn phối hợp vô cùng điêu luyện, về nét riêng ( tính độc lạ ) : Trước Cách mạng tháng Tám, con người Nguyễn Tuân hướng tới và ca tụng là những “ con người đặc tuyển, những tính cách khác thường ”. Các nhân vật ông Nghè, ông Cử, ông Huấn Cao ( Vang bóng một thời ), ông Thông phu, cô đào Tám ( Lư đồng mắt cua ) là những dẫn chứng sinh động. Sau Cách mạng tháng Tám, nhân vật tài hoa nghệ sĩ của Nguyễn Tuân hoàn toàn có thể tìm thấy ngay trong cuộc chiến đấu, lao động hàng ngày của nhân dân. Đó là anh bộ đội Tây Bắc ngụy trang bằng hoa đào, đuổi giặc giữa rừng đào. Đó là người chiến sĩ cộng sản Tô Hiệu trồng đào trong xà lim hay cô nhân quán Quảng Bình ngồi gác máy bay dưới gốc hoàng mai. Đó là những cô gái lái đò sông Đà trên những chiếc thuyền đuôi én cao ráo … Đặc biệt là ông lái đò sông Đà vượt thác sông Đà “ tay lái ra hoa ”. Trước Cách mạng tháng Tám, Nguyễn Tuân là một người tài tử, thích chơi “ ngông ”, mắc cái bệnh ham mê thanh sắc, thích chiêm ngưỡng và thưởng thức, chắt chiu cái đẹp và nhấm nháp những cảm xúc mới lạ. Khi ấy, ở Nguyễn Tuân, phần nhiều cái gì cùng trở thành “ chủ nghĩa ” : chủ nghĩa hình thức, chủ nghĩa duy mĩ, chủ nghĩa xê dịch, chủ nghĩa hưởng lạc, chủ nghĩa cảm xúc, chủ nghĩa tài tử, chủ nghĩa ẩm thực ăn uống …, và bao trùm lên toàn bộ là chủ nghĩa độc lạ. Sau Cách mạng tháng Tám, nhà văn nhạy cảm với con người mới, đời sống mới từ góc nhìn thẩm mĩ của nó. Nhưng không còn là một Nguyễn Tuân “ thẩm mỹ và nghệ thuật vị nghệ thuật và thẩm mỹ ” nữa. Ông đã nhìn ra cái đẹp của con người dưới góc nhìn của những yếu tố xã hội ( Xòe ). Cụ thể là cái đẹp gắn với nhân dân lao động, với đời sống đang nảy nở sinh sôi ; đồng thời lên án, tố cáo chính sách cũ, khẳng định chắc chắn thực chất nhân văn hóa của chính sách mới .
Qua Người lái đò sông Đà và nhân vật người lái đò, ta thấy nổi lên một Nguyễn Tuân tài hoa độc đáo, uyên thâm, tâm huyết, có tấm lòng yêu thương, tự hào da diết về vẻ đẹp của thiên nhiên, con người miền Tây Bắc xa xôi của Tổ quốc. Ca ngợi sự gan góc, thông minh, dũng cảm, kiên cường, tài hoa nhân hậu của con người Việt Nam trong công cuộc lao động xây dựng cuộc sống mới ở vùng cao. Người lái đò sông Đà thật sự là một bài ca lãng mạn, trong sáng, hào sảng về lao động và về vẻ đẹp của con người trong lao động.
Trên đây là tổng hợp các mẫu mở bài Người lái đò sông Đà xuất sắc nhất mà chúng tôi đã chọn lọc được, hy vọng những mẫu văn này sẽ giúp cho các bạn có được những bài văn hay. Chúc các bạn có những bài văn thật tốt và đạt được điểm cao tuyệt đối trong các kì thi.
Đông Đông là một tác giả nổi bật trên website Yêu Văn Học, nổi tiếng với những bài viết sâu sắc về văn học, phân tích tác phẩm và giới thiệu tác giả. Đam mê văn chương, ông cung cấp cái nhìn tinh tế và hấp dẫn về thế giới văn học.
Bình Luận