Mở bài Đoàn thuyền đánh cá

Để có được một bài văn Đoàn thuyền đánh cá hay và ghi điểm cao thì việc viết mở bài tốt, giới thiệu đúng trọng tâm là một yếu tố vô cùng quan trọng. Một mở bài hay sẽ giúp độc giả có cái nhìn tổng quát về tác phẩm và tạo ấn tượng cho người chấm bài. Dưới đây là những mẫu mở bài Đoàn thuyền đánh cá chọn lọc hay nhất cho các bạn tham khảo.

Liên hệ mở rộng bài Đoàn thuyền đánh cá

Mẫu 1

Puskin – nhà thơ vĩ đại Nga từng nhận xét “Cuộc sống là cánh đồng màu mỡ để cho thơ bén rễ sinh sôi”. Quả vây, chính từ hiện thực cuộc sống, dù là những thứ lớn lao hay nhỏ bé, ít nhiều đều là chất xúc tác thôi thúc nhà thơ tuôn những lời ca tiếng ngọc. Đến với bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá” của Huy Cận, bức tranh quê hương tại một làng chài nhỏ ở Việt Nam được hé mở đã khiến người khựng nghĩ nghĩ về những bài thơ cùng đề tài này.

“Đoàn thuyền đánh cá” sáng tác vào năm 1958 – thời điểm Huy Cận đi thực tế tại vùng mỏ Quảng Ninh. Chứng kiến vẻ đẹp của biển trời, cuộc sống sinh hoạt của cư dân nơi đây đã thôi thúc ông viết nên bài thơ này. Chính bởi vậy, đọc “Đoàn thuyền đánh cá”, bạn đọc thấy ngay cái vẻ tráng lệ của thiên nhiên, cái không khí nhộn nhịp, hăng say lao động của những người con miền biển. Và ẩn sau lớp ca từ nổi cộm đó là tình yêu thiên nhiên, quê hương đất nước của nhà thơ.

Viết về đề tài ca ngợi thiên nhiên, quê hương đất nước, nhiều nhà thơ không chỉ riêng Huy Cận mới bộc lộ cảm xúc tự hào. Nhất là với cuộc sống miền biển, ta từng đọc câu thơ trong bài thơ “Quê hương” của Tế Hanh:

“Chiếc thuyền nhẹ hăng như con tuấn mã

Phăng mái chèo mạnh mẽ vượt trường giang”.

Thuyền được so sánh với “con tuấn mã” gợi sự mạnh mẽ, khỏe khoắn, tràn trề năng lượng. Động từ “phăng” mang đến khí thế hừng hực, dũng mãnh. Trên con thuyền ra biển cá ấy, những đứa con của biển tựa như chiến binh không sợ trời, sợ đất hiên ngang chinh phục biển cả. Sở dĩ Tế Hanh có thể viết được những điều này bởi ngay từ đầu bài thơ, ông viết “Làng tôi vốn làm nghề chài lưới”. Được sinh ra, lớn lên tại miền biển, có lẽ là một đặc ân lớn của tạo hóa dành tặng, trưởng thành từ sự rắn rỏi của con người nơi đây, ông đã viết những câu ca đầy sự tự hào, yêu mến quê hương. Để rồi sau này, khi bài thơ ra đời đã để lại dấu ấn khó phai trong lòng độc giả về một cảnh sắc làng có sự hòa quyện giữa con người với thiên nhiên.

Nếu biển cả mang âm hưởng khỏe khoắn, tráng lệ nhưng cũng có khi bình dị, nhẹ nhàng như trong thơ của Huy Cận, Tế Hanh thì với nhà thơ Xuân Diệu – ông hoàng thơ tình của Việt Nam, biển cả lại đóng vai trò là lời thủ thỉ tâm sự về tình yêu:

“Bờ đẹp đẽ cát vàng

Thoai thoải hàng thông đứng

Như lặng lẽ mơ màng

Suốt ngàn năm bên sóng…”

Biển cũng nhẹ nhàng, bình dị như trong thơ Tế Hanh nhưng bờ biển ở đây lại ẩn dụ cho người con gái mình yêu. Bờ nhân từ, ôm lấy những con sóng nhấp nhô dạt vào. Bờ đẹp đẽ cát vàng mang cái gì đấy nhẹ nhàng, thục nữ. Nó hệt như người phụ nữ thủy chung, một lòng một dạ son sắt với tình yêu của mình. Thơ Xuân Diệu – dưới nhãn quan của mình, mọi thứ đối với ông, đều được nhìn dưới góc độ tình yêu đôi lứa. Có thể, nó không khỏe khoắn, cường tráng như con người sinh hoạt miền biển nhưng chính cách nhìn mới lạ của Xuân Diệu mà đã tạo ra làn gió mới, thổi hồn thi ca, khuấy động cả một vùng trời bình yên.

Lại quay trở lại với biển cả đúng nghĩa đen, nhà thơ Chế Lan Viên trong bài “Cành lan phong bể” có viết:

“Nơi những đàn mây trắng xóa cá bay đi

Cá vào hội xòe hoa mang áo đẹp

Cá nục, cá chuồn, cá chim, không phải chim đâu, cá hồng hồng sắc vẩy

Con cá song cầm đuốc dẫn thơ về”

Bốn câu thơ ngắn của Chế Lan Viên đã khiến bạn đọc ngạc nhiên bởi thế giới sắc màu của loài cá. Nhà thơ liệt kê các con cá dưới đại dương khiến bức tranh biển cả trở nên sinh động, rực rỡ. Dưới ánh nhìn của nhà thơ, ông cảm nhận được nhịp sống sinh sôi, nảy nở, căng tràn nhựa sống của muôn loài. Chúng như đang tất tưởi cho mùa hội đại dương. Loài nào cũng đẹp, cũng đáng để yêu thương.

Hoặc như, trong các tác phẩm viết, “Ông già và biển cả” của nhà văn Hemingway kể về hành trình chinh phục biển cả mênh mông của ông lão. 84 ngày trôi qua, dù không bắt được con cá nào nhưng ông không bỏ cuộc, ông lão tiếp tục hành trình ra khơi, chinh chiến với con kiếm, con cá mập để rồi trở về với bộ xương con cá khổng lồ. Câu chuyện đã mở ra bài học ý nghĩa lớn về khát vọng chinh phục thế giới tự nhiên của con người. Dẫu trong thơ “Đoàn thuyền đánh cá” của nhà thơ Huy Cận cũng có đề cập song để nói về sự mạnh mẽ, câu từ được lột tả chân thực thì “Ông già và biển cả” có phần nổi trội hơn.

Mẫu 2

Ca ngợi tinh thần lao động không còn là một chủ đề xa lạ với chúng ta, nhưng trong lĩnh vực thơ ca liệu rằng có bao nhiêu tác phẩm làm rung động được tâm hồn độc giả? Có lẽ những ai yêu thơ ca về tinh thần lao động sẽ không thể nào quên được bài thơ Đoàn thuyền đánh cá – một trong những tác phẩm nổi tiếng của Huy Cận.

Ngay mở đầu bài thơ ta đã nghe thấy âm hưởng bài ca lao động ngân vang, khoẻ khoắn trong cảnh đoàn thuyền ra khơi. Đó là cảnh ra khơi trong buổi hoàng hôn thật huy hoàng, tráng lệ, đầy sức sống:

Mặt trời xuống biển như hòn lửa
Sóng đã cài then đêm sập cửa
Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi
Câu hát căng buồm cùng gió khơi.

Công việc đánh cá nhọc nhằn vất vả, hiểm nguy nhưng đoàn thuyền lại ra khơi trong tiếng hát. Tiếng hát khỏe khoắn vang vọng khắp cả một vùng sông nước bao la, rộng lớn và cả trong lòng người thể hiện một niềm vui tươi, phấn khởi, đầy lạc quan tin tưởng của người đánh cá lúc ra khơi.

Hát rằng cá bạc biển Đông lặng
Cá thu biển Đông như đoàn thoi
Đêm ngày dệt biển muôn luồng sáng
Đến dệt lưới ta đoàn cá ơi!

Những câu thơ thể hiện trực tiếp khúc ca say mê của người đánh cá. Họ mong muốn trời yên biển lặng để đánh cá được nhiều, để cuộc sống được đủ đầy no ấm. Biện pháp so sánh “Cá thu biển Đông như đoàn thoi” cho ta cảm nhận biển Đông bao la rộng lớn, trù phú, chất chứa trong mình biết bao nhiêu là cá. 

Bài thơ có hai nguồn cảm hứng lớn, song hành, hài hòa và trộn lẫn vào nhau. Đó là cảm hứng về thiên nhiên vũ trụ và cảm hứng về con người lao động trong cuộc sống mới. Sự thống nhất của hai nguồn cảm hứng ấy được thể hiện qua kết cấu và hệ thống thi ảnh trong bài. Không gian của bài thơ là một không gian lớn lao, kì vĩ với trời, biển, trăng, sao, sóng, gió; cũng là không gian của cảnh lao động.

Thông qua việc miêu tả cảnh lao động đánh cá của người ngư dân vùng biển Hạ Long, bài thơ ngợi ca vẻ đẹp thiên nhiên, đất nước, sự giàu có của biển khơi; ngợi ca khí thế lao động hăng say, yêu đời của người lao động mới đã được giải phóng, đang làm chủ bản thân, làm chủ cuộc đời và đất nước:

Tập làm chủ, tập làm người xây dựng
Dám vươn mình cai quản lại thiên nhiên!

Đoàn thuyền đánh cá mang âm điệu ngọt ngào, niềm vui say mê và phấn chấn của nhân dân lao động làm chủ cuộc đời. Qua bài thơ ta như được sống trong những đêm trăng đẹp Hạ Long. ta tự hào đất nước ta đã có 3000km đường biển. Biển ta giàu có, dồi dào hải sản, bao la tiềm năng. Nhờ đó đã cải thiện và mang lại thu nhập cho nhân dân nhờ nghề đánh bắt.

Cách đánh cá trên biển cũng được miêu tả rất lãng mạn. Lao động thực sự là niềm vui của cuộc đời. Người lao động là người đáng quý nhất trong cuộc sống. Hình ảnh người dân chài trong bài thơ là hiện thân của người có sức sống lớn lao. Cuộc đời họ gắn liền với sóng gió mùa nắng biển khơi. Chính họ đã đem lại muối mặn và hương vị biển cho mọi gia đình gần xa. Họ với người nông dân 1 nắng 2 sương đã cho ta bài học về đức tính cần cù và tinh thần lạc quan trong lao động.

Biển đảo Việt Nam là phần lãnh thổ đất nước Việt Nam, qua nghìn đời nó luôn gắn chặt với đời sống của cư dân nước Việt cả về vật chất và tinh thần. Bởi vậy, biển đảo trong tâm thức người Việt là đất nước, là cuộc sống; và thực tế hàng ngàn năm lịch sử người Việt đã ra sức khai phá dựng xây sẵn sàng đổ cả máu xương cho chủ quyền biển đảo.

Trước kháng chiến nhà thơ Huy Cận thường mang 1 nỗi buồn u uất. Nhưng từ khi trở thành nhà thơ cách mạng Huy Cận đã say sưa ca ngợi con người mới, cuộc sống mới nên thơ ông trở nên ấm áp, đằm thắm và dào dạt niềm vui. Bài thơ đoàn thuyền đánh cá đã ra đời trong mạch cảm xúc ấy nên có thể xem đó là 1 món quà đặc biệt cho vùng mỏ Quảng Ninh là cẩm phả cho vào túi thơ của Huy Cận.

Mẫu 3

Huy Cận (1919 – 2005), là nhà thơ nổi tiếng từ phong trào Thơ mới với tập thơ Lửa thiêng (1940). Trước Cách mạng tháng Tám, thơ ông giàu chất triết lí, thấm thía bao nỗi buồn, tràn ngập nỗi sầu nhân thế. Sau Cách mạng, ông tiếp tục có nhiều cống hiến quan trọng trong công cuộc xây dựng và đổi mới đất nước. Thơ Huy Cận giai đoạn này dạt dào niềm vui, là bài ca vui về cuộc đời, là bài thơ yêu thiên nhiên, con người và cuộc sống. Bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá” là một trong những tác phẩm thể hiện rõ ràng nhất phong cách thơ ấy.

Bài thơ có hai nguồn cảm hứng lớn, song hành, hài hòa và trộn lẫn vào nhau. Đó là cảm hứng về thiên nhiên vũ trụ và cảm hứng về con người lao động trong cuộc sống mới. Sự thống nhất của hai nguồn cảm hứng ấy được thể hiện qua kết cấu và hệ thống thi ảnh trong bài.

Về kết cấu, thời gian của bài thơ là nhịp tuần hoàn của vũ trụ ( từ lúc hoàng hôn đến lúc bình minh) cũng là thời gian hoạt động của đoàn thuyền đánh cá ( từ lúc ra khơi đến khi trở về). Không gian của bài thơ là một không gian lớn lao, kì vĩ với trời,biển, trăng, sao, sóng, gió; cũng là không gian của cảnh lao động.

“Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi
Câu hát căng buồm cùng gió khơi.”

Hình ảnh, nhạc điệu trong câu thơ diễn tả khí thế khỏe khoắn, phấn chấn của những người lao động: khẩn trương làm việc bất kể ngày đêm. Đoàn thuyền lại ra khơi, tuần tự, nhịp nhàng như cái nhịp sống không bao giờ ngừng nghỉ. Chữ “lại” trong câu thơ đã diễn tả điều đó, cho ta hiểu đây là công việc, là hoạt động hàng ngày, thường xuyên, trở thành một nếp sống quen thuộc của những người ngư dân vùng biển.

“Câu hát căng buồm cùng gió khơi” là hình ảnh ẩn dụ mang tính chất khoa trương. Tiếng hát khỏe khoắn tiếp sức cho gió làm căng cánh buồm. Tiếng hát ấy, làm nổi bật khí thế hồ hởi của người lao động trong buổi xuất quân chinh phục biển cả… Tiếng hát ấy còn thể hiện niềm mong ước của người đánh cá: mong ước một chuyến ra khơi đánh bắt được thật nhiều hải sản, nhiều cá tôm giữa sự giàu đẹp của biển khơi:

“Hát rằng: cá bạc biển Đông lặng,
Cá thu biển Đông như đoàn thoi
Đêm ngày dệt biển muôn luồng sáng,
Đến dệt lưới ta,đoàn cá ơi!”

Có thể nói, cảnh lao động đánh cá trên biển như bức tranh sơn mài rực rỡ. Người kéo lưới là trung tâm của cảnh được khắc họa rất độc đáo với thân hình gân guốc, chắc khỏe cùng thành quả thu về “vẩy bạc đuôi vàng lóe rạng đông”. Màu hồng của bình minh làm ấm sáng bức tranh lao động. Thiên nhiên và con người cùng nhịp nhàng trong sự vận hành của vũ trụ.

Kết thúc một đêm hăng say trên biển, đoàn thuyền đánh cá trở về trong bình minh rực rỡ, tráng lệ:

“Câu hát căng buồm với gió khơi,
Đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời.
Mặt trời đội biển nhô màu mới,
Mắt cá huy hoàng muôn dặm phơi”.

Câu đầu của khổ thơ lặp lại gần như nguyên vẹn câu cuối của khổ thứ nhất, chỉ thay có một từ ( từ “với”) đem đến kết cấu đầu – cuối tương ứng, tạo sự hài hòa cân đối. Cấu trúc lặp lại ấy trở thành điệp khúc ngân nga, nhấn mạnh niềm vui lao động làm giàu đẹp quê hương và khắc họa đậm nét vẻ đẹp khỏe khoắn cùng niềm vui phấn khởi của người ngư dân.

Phép tu từ nhân hóa: “Đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời”cho thấy tư thế chủ động chinh phục biển trời, vũ trụ của người ngư dân. Đúng như lời bình của chính tác giả: “Bài thơ là cuộc chạy đua giữa con người với thiên nhiên và con người đã chiến thắng”.

Nếu khổ thơ đầu, mặt trời xuống biển báo hiệu hoàng hôn thì ở khổ cuối lại là mặt trời đội biển – là ngày mới bắt đầu – ngày mới với thành quả lao động bội thu và niềm tin yêu phấn chấn.

Bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá” đã khắc họa nhiều hình ảnh đẹp tráng lệ thể hiện sự hài hòa giữa thiên nhiên và con người lao động, bộc lộ niềm vui, niềm tự hào của nhà thơ trước đất nước và cuộc sống. Bài thơ có nhiều sáng tạo trong việc xây dựng hình ảnh bằng liên tưởng, tưởng tượng phong phú, độc đáo; có âm hưởng khỏe khoắn, hào hùng,lạc quan.

Thông qua việc miêu tả cảnh lao động đánh cá của người ngư dân vùng biển Hạ Long, bài thơ ngợi ca vẻ đẹp thiên nhiên, đất nước, sự giàu có của biển khơi; ngợi ca khí thế lao động hăng say, yêu đời của người lao động mới đã được giải phóng, đang làm chủ bản thân, làm chủ cuộc đời và đất nước:

“Tập làm chủ, tập làm người xây dựng
Dám vươn mình cai quản lại thiên nhiên!

Yêu biết mấy, những con người đi tới
Hai cánh tay như hai cánh bay lên
Ngực dám đón những phong ba dữ dội
Chân đạp bùn không sợ các loài sên!”

Mẫu 4

Biển từ lâu đã trở thành hình ảnh biểu tượng và là nguồn cảm hứng sáng tác cho nhiều nhà thơ, nhà văn. Ở đó có nghề đánh cá với những con người làng chài chất phác, mộc mạc. Hai tác phẩm “Quê hương” và “Đoàn thuyền đánh cá” đã khắc họa sắc nét cảnh vật thiên nhiên và con người trên biển khi ra khơi.

Họ ra đi với tâm thế hào hứng và niềm lạc quan phới phới. Họ cùng ra đi vào một ngày nắng đẹp với khung cảnh hoành tráng, hùng vĩ nhưng cũng rất thơ mộng. Tuy nhiên, ở mỗi đoạn trích, đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi trên nền không gian khác nhau và mỗi cảnh lại mang một vẻ đẹp, ấn tượng riêng.

Ở khổ một của “Quê hương”, tác giả Tế Hanh có viết:

Khi trời trong, gió nhẹ sớm mai hồng
Dân trai tráng bơi thuyền đi đánh cá

Mới sáng sớm, khi mặt trời còn ẩn sau những bóng mây, dân trai tráng trong làng bơi thuyền ra khơi đánh cá. Đón những người dân chài là tín hiệu tốt lành của đất trời, sớm mai hồng với cơn gió nhẹ thoảng qua, bầu trời trong xanh. Bức tranh thiên nhiên được Tế Hanh tô điểm với gam màu tươi sáng cùng những tính từ gợi tả “trong”, “nhẹ”, “hồng”.

Nền thiên nhiên hiện trong trẻo, thơ mộng, đón những người dân chài ra đi cho một ngày mới bội thu. Thiên nhiên trở thành nguồn cảm hứng vô tận, giúp con người phấn chấn, sảng khoái, có tâm thế tốt nhất chuẩn bị cho một ngày lao động mới. Trên khung cảnh thiên nhiên tuyệt mĩ ấy, dẫn đường con người đến với đại dương xanh không thể thiếu hình ảnh cánh thuyền buồm kiêu hãnh vươn mình trong gió:

Chiếc thuyền nhẹ hăng như con tuấn mã
Phăng mái chèo mạnh mẽ vượt trường giang

So sánh con thuyền với “con tuấn mã” là một hình ảnh ấn tượng, độc đáo, thể hiện sự nhanh nhẹn. Những chiếc thuyền rẽ sóng chạy băng băng, lời thơ của tác giả cũng theo đó bay vào không gian khoáng đạt, rộng lớn. Con thuyền trong tâm thức của tác giả, của những người con làng chài mang một vẻ đẹp hồ hởi, trẻ trung, dũng mãnh. Từ lâu, hình ảnh ấy đã trở nên thân thuộc, gắn liền với khung cảnh của làng chài.

Những hành động mạnh mẽ, khí thế hào hứng của chuyến đi được lột tả qua cách sử dụng những động từ “hăng”, “phăng” một cách điêu luyện và độc đáo. Hình ảnh các chàng trai trở nên đẹp đẽ như những chàng kị sĩ tài ba, chèo lái con thuyền, đè sóng, cưỡi gió ra khơi. Đặc sắc nhất là hình ảnh những cánh buồm căng rộng đón gió:

Cánh buồm giương to như mảnh hồn làng
Rướn thân trắng bao la thâu góp gió…

Cánh buồm vô tri được người thi sĩ thổi hồn và trở nên đẹp đẽ lạ thường. Cánh buồm như mang theo tâm hồn thiêng liêng của cả làng chài. Đến đây, tác giả đưa ra một hình ảnh so sánh độc đáo, lạ thường: “cánh buồm giương to như mảnh hồn làng”. Linh hồn làng biển dường như được cụ thể hóa như cánh buồm trắng. Gợi cảm giác đi xa, những ước mơ bay bổng, những khát khao cháy bỏng về một cuộc sống đầy đủ, ấm no của tuổi trẻ nhiều hoài bão.

Và từ lâu cánh buồm đã trở thành người bạn thân thiết không chỉ che chở, nuôi sống họ mà còn nâng đỡ cho những ước mơ được bay lên. Con thuyền như tự “rướn” thân mình vươn ra biển lớn, hòa nhập vào với nắng và gió của biển khơi, góp sức nuôi sống làng chài.

Nếu ở tác phẩm “Quê hương” của Tế Hanh, đoàn thuyền ra khơi đánh cá trong khung cảnh bình minh cho một khởi đầu mới thì bức tranh lao động của người dân chài lại được tác giả Huy Cận khắc họa khác lạ trong “Đoàn thuyền đánh cá”.

Thuyền ta lái gió với buồm trăng
Lướt giữa mây cao với biển bằng
Ra đậu dặm xa dò bụng biển
Dàn đan thế trận lưới vây giăng…

Người lao động dường như đang thưởng ngoạn bức tranh vô giá của biển cả về đêm mà thiên nhiên đã hào phóng ban tặng. Âm điệu câu thơ tha thiết kết hợp với từ cảm thán ơi và dấu chấm cảm thể hiện khát vọng đến cháy bỏng của ngư dân mong muốn đánh bắt thật nhiều cá để làm giàu cho Tổ quốc. Đó cũng chính là nét đẹp của người lao động trên biển. Cảm hứng lãng mạn đã giúp nhà thơ phát hiện ra những vẻ đẹp của cảnh đánh cá giữa biển đêm, trong niềm vui phơi phới, khỏe khoắn của người lao động làm chủ công việc của mình.

Con thuyền đánh cá vốn nhỏ bé trước biển cả bao la đã trở thành con thuyền kì vĩ, khổng lồ, hòa nhập vào với kích thước rộng lớn của thiên nhiên vũ trụ. Hai câu thơ “Thuyền ta lái gió với buồm trăng / Lướt giữa mây cao với biển bằng đẹp như một bức tranh lồng lộng mây trời, mênh mông biển cả.

Hình ảnh đoàn thuyền được làm đẹp thêm bởi sự tưởng tượng phong phú giàu chất lãng mạn: gió là người lái thuyền, còn ánh trăng trên cao tựa là cánh buồm. Thuyền và người đã hòa nhập vào thiên nhiên bát ngát, lướt đi phơi phới trong cái thơ mộng của trời biển, gió, trăng. Chủ nhân của con thuyền chính là những người lao động đang lồng lộng giữa biển trời với tư thế làm chủ thiên nhiên, làm chủ vũ trụ.

Tư thế ra khơi nhẹ nhàng thoải mái đầy khí thế ấy chỉ có ở những con người vừa thoát khỏi kiếp sống nô lệ đang làm chủ cuộc sống, làm chủ đất trời. Chữ lướt đặc tả đoàn thuyền ra khơi với vận tốc phi thường, thiên nhiên cùng góp sức với con người trên chặng đường lao động.

Đến ngư trường để dò bụng biển: hỏi dưới lòng biển sâu thẳm kia nơi nào có nhiều cá nhất ? Đây thật sự là một cuộc chiến đấu giữa con người và thiên nhiên để dành lấy từ bàn tay thiên nhiên những của cải, tài nguyên để làm giàu đất nước phục vụ cuộc sống con người bằng tất cả sức lực với trí tuệ của con người. Ngư dân muốn thu được những mẻ cá lớn thì phải có nhiều lưới, nhiều con thuyền, phải biết cách dàn đan thế trận cách bủa lưới vây giăng. Huy Cận quả có sự am hiểu sâu sắc với nghề nghiệp và cảm thông với người lao động mới vẽ được bức tranh vừa hiện thực vừa lãng mạn ấy.

Thành công của đoạn thơ là bút pháp lãng mạn và tả thực hình ảnh người dân chài lao động trên biển. Không chỉ có con người mà thiên nhiên cùng đồng hành với họ trong quá trình lao động đánh bắt cá về đêm. Sự hăng say và tinh thần phấn khởi của ngư dân đã giúp cuộc sống họ ổn định và góp một phần không nhỏ vào công cuộc xây dựng đất nước.

Đoạn thơ là một bài ca lao động hứng khởi, hào hùng. Bài ca ấy dành cho biển hào phóng, cho những con người cần cù, gan góc, đang làm giàu cho đất nước. Những người lao động đã thật sự làm chủ cuộc sống của mình, làm chủ vùng biển thân yêu của Tổ quốc. Cảm hứng trữ tình và nghệ thuật điêu luyện được tác giả sử dụng trong đoạn thơ đã cuốn hút người đọc thật sự. Chúng ta cùng chia sẻ niềm vui to lớn với nhà thơ, với tất cả những người lao động mới đang kiêu hãnh ngẩng cao đầu trên con đường đi đến tương lai tươi sáng.

Mỗi cảnh ra khơi dù ở những thời điểm khác nhau trong ngày nhưng đều mang một vẻ đẹp hoành tráng, thơ mộng trên khung cảnh thiên nhiên được khắc họa ấn tượng với những sắc thái riêng. Mà nổi bật trên đó là hình ảnh những người lao động nhiệt tình với tư thế hào hứng, lao động miệt mài không kể ngày đêm để xây dựng quê hương đất nước. Họ làm việc với lòng say mê và những ước mơ được vun đắp.

Mẫu 5

Huy Cận là bút danh, họ tên là Cù Huy Cận. Thơ của ông dào dạt niềm vui, nhất là khi ông nói về cuộc sống mới, con người mới. Bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá” được Huy Cận viết năm 1958. Bài thơ miêu tả đoàn thuyền ra khơi đánh cá một đêm trăng tròn Hạ long, qua đó ca ngợi biển quê hương giàu đẹp, người dân chài làm chủ cuộc đời, hăng say lao động, xây dựng cuộc sống mới ấm no hạnh phúc.

Thuyền ta lái gió với buồm trăng
Lướt giữa mây cao với biển bằng

Hai tiếng “thuyền ta” vang lên một cách đầy kiêu hãnh, tự hào. Xa rồi những ngày áp bức, bóc lột, làm thân nô lệ, làm kiếp ngựa trâu, bị coi như thứ tài sản, bị bóc lột đến kiệt quệ sức lao động, ta có làm mà không được hưởng. Còn giờ đây, ta thực sự trở thành một công dân của đất nước. Ta được làm chủ đất nước, biển trời và làm chủ công việc của mình.

Trong không khí hào hứng, phấn khởi, say mê, người ngư dân đưa con thuyền vào cuộc chinh phục mới. Bút pháp lãng mạn, khoa trương đã biến con thuyền không phải chạy bằng động cơ máy móc mà bằng sức mạnh của tự nhiên. Con thuyền ấy có gió làm bánh lái, trăng làm buồm. Trong phút chốc, tầm vóc con thuyền trở nên lớn lao, kì vĩ sánh ngang cùng thiên nhiên vũ trụ. Hình ảnh con thuyền hay chính là con người lao động với tầm vóc cũng rất lớn lao.

Con thuyền ấy không phải đi trên mặt biển mà như “lướt” giữa không gian rộng với trời xanh bát ngát. Động từ “lướt” diễn tả đoàn thuyền không chỉ chạy nhanh mà còn rất nhẹ nhàng. Vẻ đẹp của con thuyền chính là vẻ đẹp của người lao động. Đoàn thuyền chạy nhanh diễn tả khí thế phơi phới của những con người lần đầu tiên làm chủ cuộc đời.

Họ không chỉ có sức mạnh mà tâm hồn họ còn vô cùng vui tươi phấn khởi. Hình ảnh con thuyền mang kích thước khổng lồ đang hòa nhập với thiên nhiên tạo nên một cảnh tượng kì vĩ. Dường như đây không phải là đoàn thuyền trong cuộc đánh bắt cá mà đang trong cuộc du ngoại giữa chốn bồng lai tiên cảnh.

Nếu hai câu thơ trên miêu tả bằng bút pháp tả thực thì hai câu dưới miêu tả bằng bút pháp hiện thực. Cảnh lao động trở về tính chất quyết liệt của nó:

“Ra đầu dặm xa dò bụng biển
Dàn đan thế trận lưới vây giăng”

Những người ngư dân với tâm hồn phơi phới đang làm chủ phương tiện của mình. Họ lái những con thuyền ra khơi đâu còn quẩn quanh đánh bắt ven bờ. Đâu còn những ngày chỉ có những trang thiết bị thô sơ, thiếu thốn.Giờ đây họ đã có trong tay những tranh thiết bị hiện đại để đánh bắt xa bờ.Với những phương tiện ấy,họ tự tin tìm đến những nơi xa để “dò bụng biển”.

Nghệ thuật nhân hóa, ẩn dụ đã biến lòng biển bao la trở thành “bụng biển”. Nơi ấy chất chứa bao điều kỳ lạ, bí hiểm đòi hỏi sự khám phá của con người. Nơi ấy cũng chứa đựng tài nguyên khoáng sản để phục vụ cho công việc làm giàu đất nước.

Bằng một loạt động từ mạnh được sử dụng liên tiếp nhà thơ đã giúp người đọc hình dung cảnh đánh bắt cá. Những ngư dân giờ bước vào cuộc chiến mới. Ở đó, ngư trường là chiến trường, ngư cụ là vũ khí, ngư dân là chiến sĩ. Tất cả trong tư thế hoàn toàn chủ động để dàn đan thế trận tấn công vào cuộc chinh phục thiên nhiên.

Bài thơ “Mùa xuân nho nhỏ” của Thanh Hải cũng là một bài thơ đặc sắc ca ngợi vẻ đẹp và khí thế của đất nước vào xuân, thể hiện khát vọng và tình yêu thiết tha được trọn đời hiến dâng cho quê hương đất nước. Tác giả không mơ giấc mơ vĩ đại, chẳng tưởng một viễn cảnh lạ kỳ, mà tâm hồn tác giả nguyện những ước mơ đơn sơ, bình dị:

Ta làm con chim hót
Ta làm một cành hoa
Ta nhập vào hòa ca
Một nốt trầm xao xuyến.

Tác giả ước mơ được hi sinh, được cống hiến. Ước mơ cháy bỏng của tác giả sôi tràn nhiệt huyết, căng tràn nhựa hi sinh, thổi phồng lên một niềm tin bất diệt. Tác giả mơ ước nhưng chỉ nguyện “làm” một cành hoa, một con chim hót. Tác giả như nguyện rằng mình sẽ làm, vâng sẽ làm một tiếng chim, một cành hoa đế góp vào vườn hoa muôn hương muôn sắc, rộn rã tiếng chim. Một cành hoa, một tiếng chim để tô điểm cho phong cảnh mùa xuân tươi đẹp. Đó là ước nguyện lạ thường, không phải nó cao siêu vĩ đại mà tại nó gần gũi.

Cả 2 tác giả đều lấy những hình ảnh thiên nhiên với hình ảnh thơ lãng mạn, bay bổng để thể hiện vẻ đẹp của con người : đó là những con người với khí thế lao động hăng say, với tầm vóc lớn lao kì vĩ trong công cuộc lao động dựng xây đất nước; đó là những con người với mơ ước được hoá thân, được cống hiến những gì tươi đẹp nhất cho đời. Qua đó, tác giả cũng truyền đạt một thông điệp hình ảnh con người Việt Nam luôn cố gắng làm việc với ước mơ cống hiến một phần công sức cho sự phát triển của đất nước.

Trên đây là tổng hợp các mẫu mở bài Đoàn thuyền đánh cá xuất sắc nhất mà chúng tôi đã chọn lọc được, hy vọng những mẫu văn này sẽ giúp cho các bạn có được những bài văn hay. Chúc các bạn có những bài văn thật tốt và đạt được điểm cao tuyệt đối trong các kì thi.