Mở bài Đây thôn Vĩ Dạ

Để có được một bài văn Đây thôn Vĩ Dạ hay và ghi điểm cao thì việc viết mở bài tốt, giới thiệu đúng trọng tâm là một yếu tố vô cùng quan trọng. Một mở bài hay sẽ giúp độc giả có cái nhìn tổng quát về tác phẩm và tạo ấn tượng cho người chấm bài. Dưới đây là những mẫu mở bài Đây thôn vĩ dạ chọn lọc hay nhất cho các bạn tham khảo.

Mở bài Đây thôn Vĩ Dạ khổ 1

Mẫu 1

      Hàn Mặc Tử là một trong những nhà thơ tiêu biểu của phong trào thơ Mới. Thơ ông đặc trưng bởi sự dịu dàng, đằm thắm và xen chút buồn man mác. Bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ” là một trong những sáng tác hay nhất của Hàn Mặc Tử với những cảm xúc chân thật, thiết tha. Bài thơ được lấy cảm hứng từ bức thư của Hoàng Thị Kim Cúc gửi cho nhà thơ. Nó là tiếng lòng, là sự nhớ nhung quê hương cùng với một chút thương xót cho cuộc tình dở dang. Vì căn bệnh hiểm nghèo mà Hàn Mặc Tử bị xã hội xa lánh, buộc ông phải sống cách ly và vì thế, đã rất lâu nhà thơ chưa về thăm lại thôn Vĩ. Bức thư của cô gái mà anh thầm yêu thương đã làm cho nỗi nhớ quê hương trào lên trong tâm hồn tác giả. Khổ thơ mở đầu chỉ là bốn câu ngắn ngủi nhưng lại có sức truyền tải vô cùng lớn.

Mẫu 2

       “Hàn Mặc Tử là một thi sĩ tài hoa nhưng bạc mệnh. Ông có nhiều mối tình trắc trở. Ông từng nói: “Trăng là người bạn tình chung thủy cuối cùng của đời ta”. Hoàng Thị Kim Cúc là một thiếu nữ thôn Vĩ Dạ, là mối tình đầu của Hàn Mặc Tử. Hai người quen nhau ở Quy Nhơn năm 1936. Hàn Mặc Tử yêu Kim Cúc nhưng vì rụt rè nên chỉ dám bộc bạch tâm sự bằng thơ ca. Năm 1939, biết Hàn Mặc Tử mắc bệnh nan y, Hoàng Thị Kim Cúc đã gửi tặng ông một tấm bưu ảnh phong cảnh thôn Vĩ Dạ. Bức bưu ảnh và những dòng chữ trên đó đã gợi dậy những gì thầm kín xa xưa trong lòng Hàn Mặc Tử. Từ đó, ông đã viết nên bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ”, một trong những bài thơ nổi tiếng nhất của ông. Khổ thơ đầu của bài thơ là một bức tranh thiên nhiên thôn Vĩ Dạ tuyệt đẹp, nhưng cũng mang đầy tâm trạng của nhà thơ:

“Sao anh không về chơi thôn Vĩ?

Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên

Vườn ai mướt quá xanh như ngọc

Lá trúc che ngang mặt chữ điền”

Mẫu 3

     “Hàn Mặc Tử là một trong những nhà thơ tài hoa nhất của phong trào Thơ mới. Ông có một hồn thơ mang đậm chất lãng mạn, bay bổng và giàu chất triết lý. Bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ” là một trong những tác phẩm tiêu biểu của ông, thể hiện rõ nét tâm hồn và phong cách nghệ thuật của nhà thơ.Khổ thơ đầu của bài thơ là bức tranh thiên nhiên thôn Vĩ Dạ tuyệt đẹp, nhưng cũng mang đầy tâm trạng của nhà thơ:

“Sao anh không về chơi thôn Vĩ?

Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên

Vườn ai mướt quá xanh như ngọc

Lá trúc che ngang mặt chữ điền”

Mở đầu bài thơ, Hàn Mặc Tử đã đặt ra một câu hỏi tu từ, vừa là lời trách móc, vừa là lời mời gọi người đọc về thăm thôn Vĩ Dạ. Câu hỏi này đã gợi lên sự tò mò và mong muốn được khám phá vẻ đẹp của thôn Vĩ Dạ trong lòng người đọc.

Mẫu 4

         Nhà thơ Hàn Mặc Tử, một tên tuổi nổi bật trong dòng thơ mới, đặc biệt nổi tiếng với sức sáng tạo độc đáo và tầm ảnh hưởng lớn trong thế giới văn chương Việt Nam. Cuộc đời ngắn ngủi và đầy bi kịch của ông đã làm nên một tình cảm đặc biệt cho những người yêu thơ và tìm kiếm sự chân thật trong tác phẩm nghệ thuật.Thơ của Hàn Mặc Tử, như một tiếng hát ngọt ngào, là lời kể của một tâm hồn say mê cuộc sống, đắm chìm trong vẻ đẹp của cảnh vật, và trái tim ngập tràn tình yêu thương đối với con người và văn hóa. Bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ” là một biểu tượng cho sự tha thiết và tuyệt vọng của nhà thơ.Khổ thơ đầu tiên của bài thơ như một cửa sổ mở ra, đưa độc giả đến với một thế giới thiên nhiên tươi đẹp và hùng vĩ. Hàn Mặc Tử đã biến từng từ ngôn từ thành những đoạn hội thoại đầy sức sống, làm hòa mình vào cảm xúc và suy tư sâu sắc của một tâm hồn nhạy cảm và nghệ sĩ đối với môi trường xung quanh.

Mẫu 5

         Hàn Mặc Tử một nhà thơ tiêu biểu trong phong trào thơ những năm 1932-1945 với những tác phẩm tiêu biểu. Các nhà thơ đã hòa mình vào thiên nhiên, ngắm nhìn cảnh đẹp quê hương đất nước dù ông đang phải trải qua những đau đớn của bệnh tật với mong muốn được gắn bó lâu hơn với cuộc sống này. Đó là một tinh thần đáng ngợi ca và tâm trạng ấy đã được khắc họa rõ trong bài “Đây thôn Vĩ Dạ”. Khổ 1 là bức tranh thôn Vĩ tươi đẹp cùng tâm trạng tiếc nuối của tác giả.

Mở bài Đây thôn Vĩ Dạ học sinh giỏi

Mẫu 1

          Hàn Mặc Tử, người mang trong mình căn bệnh phong, đã để lại dấu ấn sâu sắc trong nền văn hóa thơ ca Việt Nam. Mặc dù đời sống trải qua những khắc nghiệt và đau đớn, nhưng tài hoa và sức sáng tạo của ông không ngừng tỏa sáng, tạo nên những tác phẩm đầy nghệ thuật và ý nghĩa. Hàn Mặc Tử thuộc thế hệ thơ mới, và ông được coi là một trong những nhà thơ có ảnh hưởng lớn trong phong trào này.”Bên cạnh những khía cạnh đau thương và căng trầy của cuộc đời, Hàn Mặc Tử đã biến những trải nghiệm đắng cay thành nguồn cảm hứng cho sự sáng tạo nghệ thuật của mình. Trong đó, bài thơ ‘Đây thôn Vĩ Dạ’ là một biểu tượng rực rỡ, là hình ảnh của tình yêu đến mức đau đớn, hướng về những nỗi lòng trăn trở của mối tình thầm kín.

Mẫu 2

       Hàn Mặc Tử, người có tên thật là Nguyễn Trọng Trí, là một huyền thoại của thế giới thơ Việt Nam, sinh ra và lớn lên trong một gia đình nghèo của làng Lệ Mỹ, tổng Võ Xá, Phong Lộc tỉnh Đồng Hới. Cuộc sống khó khăn, gia đình là bức tranh đầu đời của ông. Từ khi còn nhỏ, với những bút danh như Minh Duệ Thị, Phong Trần, Lệ Thanh…, Hàn Mặc Tử đã bắt đầu viết thơ, khắc họa nên những đoạn thơ sống động, tinh tế, là bước chân đầu tiên của một ngôi sao sáng trong phong trào Thơ mới. Cuộc đời của Hàn Mặc Tử chẳng giống như những bức tranh sáng tạo của ông, nó đầy mâu thuẫn và bi thương. Tuy nhiên, ông lại là một trong những nhà thơ có hoạt động sáng tác mạnh mẽ nhất trong phong trào thơ mới. Trong đó, “Đây thôn Vĩ Dạ” là một kiệt tác nổi bật được trích từ tập thơ “Thơ điên”. Mối tình dang dở của Hàn Mặc Tử với một cô gái quê ở Vĩ Dạ – một thôn nhỏ bên dòng sông Hương, đã là nguồn cảm hứng cho bài thơ đầy tình cảm và sâu sắc này.

Mẫu 3

         “Hàn Mặc Tử là một nhà thơ tài hoa nhưng bạc mệnh. Ông mắc phải căn bệnh hiểm nghèo – bệnh phong, nên những vần thơ của ông luôn trĩu nặng những tâm sự, thấm đẫm nỗi đau cùng với sự mặc cảm vì bệnh tật. Tuy nhiên, ông cũng được đánh giá là một trong những nhà thơ có sức sáng tạo mạnh mẽ nhất trong phong trào Thơ mới. Bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ” là một trong những tác phẩm nổi tiếng nhất của Hàn Mặc Tử. Bài thơ được viết vào năm 1938, khi Hàn Mặc Tử đang mắc bệnh phong và sống trong cảnh cô đơn, bệnh tật. Bài thơ được gợi cảm hứng từ tấm bưu ảnh và những dòng chữ của Hoàng Thị Kim Cúc – người tình đầu của Hàn Mặc Tử.

Mẫu 4

           Dưới bức tranh nền xanh mướt của cánh đồng lúa và những hàng cổ thụ, thôn Vĩ Dạ nằm im bên dòng sông Hương như một chấm phẩy tuyệt vời giữa bức tranh thiên nhiên hùng vĩ của xứ Huế. Đây không chỉ là một làng quê bình yên, mà còn là đoạn trích lịch sử, văn hóa và tâm hồn của người dân Việt Nam. Thôn Vĩ Dạ đã chạm đến  trái tim không chỉ của những người con của xứ Huế mộng mơ mà còn lay động tâm hồn đam mê văn hóa và nghệ thuật của độc giả trong và ngoài nước.

Mẫu 5

          Thi sĩ Hàn Mặc Tử, người với trái tim và tâm hồn mê đắm trong bản tình ca lãng mạn và dạt dào yêu thương, đã để lại những dấu vết sâu sắc của tình cảm và nghệ thuật trong văn hóa thơ mới Việt Nam. Trái tim lãng mạn của ông là nguồn cảm hứng không ngừng cho những vần thơ ngọt ngào, đậm chất da diết, và bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ” không phải là ngoại lệ. Những vần thơ da diết của Hàn Mặc Tử không chỉ là sản phẩm của sự đau thương và xót xa trước số phận khó khăn mà còn là kết quả của những phút giây sung sướng và hạnh phúc. Mỗi từ ngôn từ được ông chọn lựa đều mang theo một mảng tình cảm sâu sắc, là sự chấp nhận và đối diện với cuộc sống đầy gian khó. “Đây thôn Vĩ Dạ” ra đời ngay trong những phút giây tuyệt vời nhất, là bức tranh tuyệt tác, được vẽ nên từ những trang thơ lặng lẽ nhưng đong đầy cảm xúc.

Mở bài gián tiếp Đây thôn Vĩ Dạ

Mẫu 1

             Huế, với vẻ đẹp của một cố đô yên bình và trữ tình, như một bức tranh thơ mộng đầy huyền bí. Nơi đây, dường như thời gian ngừng lại, từng con ngõ hẹp, từng tấm bức trường thành đều kể lên câu chuyện của một quá khứ tráng lệ. Bước chân chạm nhẹ vào xứ Huế, ta chìm đắm trong không gian yên bình, cổ kính của những con đường đá cũ, và ngỡ như ta trở thành những bức tranh sống động trong bức tường lịch sử. Nhưng xứ Huế còn chứa đựng những mối tình đẹp, những kỷ niệm dang dở, những chia lìa xa cách đau thương. Chính tình yêu đầy nồng thắm và buồn bã của chàng thi sĩ Hàn Mặc Tử đã được chuyển tải qua những cung đường, con đường đẹp ngỡ ngàng, những dòng thơ trong “Đây thôn Vĩ Dạ”. Bức tranh thiên nhiên hữu tình kết hợp cùng những tình cảm khó quên làm cho tác phẩm trở nên sống động, làn gió trầm mặc của Huế thổi bùng vào những dòng chữ, hòa mình vào không khí thiền thức và hoài niệm.

Mẫu 2

             Người xưa đã từng truyền tai nhau câu “Càng thương thì càng nhớ, càng đợi thì càng đau, mà càng hoài niệm thì lại càng thêm cách xa.” Đúng như lời ca dao ấy, thời gian chính là mũi tên vô hình xuyên qua những ký ức, những kỷ niệm, khiến con người ta vương vấn trong những đợi chờ nhớ mong. Và trong cuộc hành trình đối mặt với chính ký ức của mình, thi sĩ Hàn Mặc Tử đã sử dụng cây bút như một công cụ để ghi lại những thăng trầm, những cảm xúc đong đầy tình nghĩa và những kỷ niệm thấm đẫm tâm hồn. Thơ của Hàn Mặc Tử, như một lời hát thanh tao, mang đến một màu sắc rất riêng, nhẹ nhàng nhưng đậm cảm xúc. Trong bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ,” người ta không chỉ bắt gặp những đợi chờ, nỗi nhớ mà còn nhận thức được sự trải qua của thời gian và sự mênh mông của những khoảnh khắc trí tuệ.

Mẫu 3

            Thơ ca Việt Nam là một biểu tượng văn hóa phong phú và đa dạng, được tạo nên từ những nguồn cảm hứng đa dạng. Trong thế giới thơ mênh mông ấy, tình yêu, những bóng hình mộng mơ, những nỗi nhớ thương và những khao khát cuộc sống luôn chiếm lĩnh một vị trí đặc biệt.Trong văn học, thi sĩ Hàn Mặc Tử tựa như một chàng thủ lĩnh, đưa đến cho độc giả những trải nghiệm tinh tế về nghệ thuật thơ ca. Hàn Mặc Tử, với bút danh trái tim lãng mạn, đã trải lòng về thơ ca bằng một kiệt tác mà ông tự mình gọi là “Đây thôn Vĩ Dạ”. Quê hương, mối tình đầu ngọt ngào và xứ Huế mến thương đã chảy trong từng câu thơ, hòa quyện vào những giọt nước mắt buồn bã của ông. Bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ” trở thành một bức tranh cảm xúc, nơi những nỗi nhớ thương và tình yêu trở thành nguồn động viên mạnh mẽ trong cuộc sống của thi sĩ.

Mẫu 4

            Thành phố Huế mang trong mình những nét đẹp rất riêng. Nét đẹp ấy vừa có sự cổ kính, vừa có sự uy nghiêm mà lại rất đỗi trữ tình. Khi đến với Huế, ta có thể thả mình vào những sự yên bình mơ mộng cùng với những tà áo dài thướt tha, với dòng sông Hương hiền hòa vào mỗi chiều gió lộng, cùng những câu hò gợi thương nhớ. Huế khiến người xứ lạ cảm thấy thật lưu luyến bởi cảnh vật và bởi cả những mối tình đẹp nhưng lại dở dang. Phải chăng đó chính là mối tình của chàng thi sĩ Hàn Mặc Tử đã đưa vào thơ, mối tình xứ Huế ngọt ngào mà đau đớn, mối tình của “Đây thôn Vĩ Dạ”. Mối tình cảm đẹp đẽ ấy được khắc họa thông qua vẻ đẹp của thiên nhiên nơi xứ sở thâm trầm, bình yên và thông qua vẻ đẹp của thiên nhiên mà phần nào bộc lộ nỗi lòng khao khát được sống, được yêu thương đến cháy bỏng mãnh liệt. Tình cảm mãnh liệt đó được kết tinh lại thành bài thơ ” Đây thôn Vĩ Dạ”.

Mẫu 5

           Thơ ca là tiếng nói của tâm hồn, là nơi gửi gắm những suy tư, tình cảm của con người. Với mỗi người nghệ sĩ, thơ ca là một phương tiện để họ thể hiện những cảm xúc, trải nghiệm của bản thân. Trong nền văn học Việt Nam hiện đại, có rất nhiều tác phẩm thơ ca hay và ý nghĩa, trong đó có bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ” của Hàn Mặc Tử.Bài thơ được viết năm 1938, khi Hàn Mặc Tử đang mắc bệnh phong và sống trong cảnh cô đơn, bệnh tật. Bài thơ được gợi cảm hứng từ tấm bưu ảnh và những dòng chữ của Hoàng Thị Kim Cúc – người tình đầu của Hàn Mặc Tử.

Liên hệ mở rộng bài Đây thôn Vĩ Dạ.

Mẫu 1

      Trước không có ai, sau không có ai, Hàn Mặc Tử như một ngôi sao 5 cánh chổi xoẹt qua khung trời Nước Ta với cái đuôi chói lòa rực rỡ tỏa nắng của mình.” “Tôi xin hứa hẹn với những người rằng, tương lai, những cái tầm thường, mực thước kia sẽ biến tan đi, và còn lại của cái thời kỳ này, chút gì đáng kể đó là Hàn Mặc Tử. “ – Chế Lan Viên.

Đúng như những gì nhà thơ Chế Lan Viên nhận xét, Hàn Mặc Tử – một trái tim, một tâm hồn lãng mạn dạt dào yêu thương đã bật lên những tiếng thơ, tiếng khóc của nghệ thuật trước cuộc đời. Những phút giây xót và sung sướng, những phút giây mà ông đã thả hồn mình vào trong thơ, những giây phút ông đã chắt lọc, đã thăng hoa từ nỗi đau của tâm hồn mình để viết lên những bài thơ tuyệt bút.

Và bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ đã được ra đời trong những phút giây tuyệt diệu ấy. Ở bài thơ, cái tình mặn nồng trong sáng đã hòa quyện với thiên nhiên tươi đẹp, mối tình riêng đã ở trong mối tình chung hồn thơ vẫn đượm vẻ buồn đau. Mở đầu bài thơ là một lời trách móc nhẹ nhàng của nhân vật trữ tình:

Sao anh không về chơi thôn Vĩ

Chỉ một câu hỏi thôi! Một câu hỏi của cô gái thôn Vĩ nhưng chan chứa bao yêu thương mong đợi. Câu thơ vừa có ý trách móc vừa có ý tiếc nuối của cô gái đối với người yêu vì đã bỏ qua được chiêm ngưỡng vẻ đẹp mặn mà, ấm áp tình quê của thôn Vĩ – vùng nông thôn ngoại ô xinh xắn thơ mộng, một phương diện của cảnh Huế.

Chúng ta hãy chú ý quan sát, tận hưởng vẻ đẹp của thôn Vĩ:

Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên.
Vườn ai mướt quá, xanh như ngọc
Lá trúc che ngang mặt chữ điền.

Nét đặc sắc của thôn Vĩ – quê hương người con gái gợi mở ở câu đầu trong  đây đã được tả rõ nét. Một bức tranh thiên nhiên tuyệt tác rộng mở trước mắt người đọc. Hình ảnh nắng tưới lên trên ngọn cau tươi đẹp, tràn đầy sức sống. Nắng mới là nắng sớm bắt đầu của một ngày, những hàng cau cao vút vươn mình đón lấy những tia nắng sớm kia, và tất cả tràn ngập ánh nắng và buổi bình minh.

Cái nắng hàng cau nắng mới lên sao lại gợi một nỗi niềm làng quê hương đến thế. Câu thơ này bất chợt khiến ta nghĩ tới những câu thơ Tố Hữu trong bài thơ Xuân lòng:

Nắng xuân tưới trên thân dừa xanh dịu
Tàu cau non lấp loáng muôn gươm xanh
Ánh nhởn nhơ đùa quả non trắng phếu
Và chảy tan qua kẽ lá cành chanh.

Những tán lá cành cây được sương đêm gột rửa trở thành cành lá ngọc – một màu xanh cao quý, lấp lánh, trong trẻo làm cho vườn cây càng sáng bóng lên. Hình như cả vườn cây đều tắm trong luồng không khí đang còn run rẩy sự trinh bạch nguyên sơ chưa hề nhuốm bụi. Lăng kính không khí ấy làm hiện rõ hơn đường nét màu sắc của cảnh sắc mà mắt thường chúng ta bỏ qua. Nếu không có một tình yêu sâu nặng nồng nàn đối với Vĩ Dạ thì Hàn Mặc Tử không thể có được những vần thơ trong trẻo như vậy.

Ai từng sinh ra và lớn lên ở Việt Nam, đặc biệt ở xứ Huế thì mới thấm thía những vần thơ này:

Lá trúc che ngang mặt chữ điền.

Trong vườn thôn Vĩ Dạ kia, nhành lá trúc và khuôn mặt chữ điền sao lại có mối liên quan bất ngờ mà đẹp thế: những chiếc lá trúc thanh mảnh, thon thả che ngang gương mặt chữ điền. Mặt chữ điền – khuôn mặt ấy càng hiện ra thấp thoáng sau lá trúc mơ màng, hư hư thực thực.

Thôn Vĩ Dạ nằm cạnh ngay bờ sông Hương êm đềm. Vì thế mà từ cách tả cảnh làng quê ở khổ thơ đầu hé mở tình yêu, tác giả chuyển sang tả cảnh sông với niềm bâng khuâng, nỗi nhớ mong sầu muộn hư ảo như trong giấc mộng:

Gió theo lối gió, mây đường mây,
Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay…
Thuyền ai đậu bến sông trăng đó,
Có chở trăng về kịp tối nay?

Gió và mây để gợi buồn vì nó trôi nổi, lang thang thì nay lại càng buồn hơn gió đi theo đường gió, mây đi theo đường mây, gió và mây xa nhau; không thể là bạn đồng hành, không thể gặp gỡ và sự xa cách của nhà thơ đối với người yêu có thể là vĩnh viễn. Phải chăng đây là cảm giác của nhà thơ trong xa cách nhớ thương, và đây cũng là mặc cảm của những con người xưa trong cuộc sống. Chúng ta không còn thấy giọng tươi mát đầy sức sống ở đoạn trước nữa, chúng ta gặp lại Hàn Mặc Tử – một tâm hồn đau buồn, u uất.

Ý thơ thật buồn, được nối tiếp trong hai câu sau nhưng với cách diễn đạt thật tuyệt diệu, thực đấy mà mộng đấy:

Thuyền ai đậu bến sông trăng đó,
Có chở trăng về kịp tối nay?

Cảnh vật thiên nhiên tràn ngập ánh sáng, một ánh trăng vàng sáng loáng chiếu xuống dòng sông, làm cho cả dòng sông và những bãi bồi lung linh, huyền ảo. Dòng nước buồn thiu đã hoá thành dòng sông trăng lung linh, con thuyền khách đã trở thành thuyền trăng. Vầng trăng trong hai câu thơ này là vầng trăng nguyên vẹn của thi nhân trước mảnh tình yêu chưa bị phôi pha.

Hàn Mặc Tử rất yêu trăng nhưng vầng trăng ở các bài thơ khác không giống thế này. Một ánh trăng gắt gao, kì quái, một ánh trăng khêu gợi, lả lơi:

Gió tít tầng cao trăng ngã ngửa
Vỡ tan thành vũng đọng vàng khô.
Trăng nằm sõng soài trên cành liễu
Đợi gió đông về để lả lơi.

Trăng trở thành một khí quyển bao quanh mọi cảm giác, mọi suy nghĩ của Hàn Mặc Tử, hơn nữa nó còn lẫn vào thân xác ông. Nó là ông là trời đất, là người ta. Trăng biến thành vô lường trong thơ ông, khi hữu thể khi vô hình, khi mê hoặc khi kinh hoàng:

Có chở trăng về kịp tối nay?

Vầng trăng ở đây phải chăng là vầng trăng hạnh phúc và con thuyền không kịp trở về cho người trên bến đợi? Câu hỏi biểu lộ niềm lo lắng của một số phận không có tương lai. Hàn Mặc Tử hiểu căn bệnh của mình nên ông mặc cảm về thời gian cuộc đời ngắn ngủi, vầng trăng không về kịp và Hàn Mặc Tử cũng không đợi vầng trăng hạnh phúc đó nữa, một năm sau ông vĩnh biệt cuộc đời.

Nhưng hiện tại, con người đang sống và đang tiếp tục giấc mơ:

Mơ khách đường xa, khách đường xa,
Áo em trắng quá nhìn không ra…

Trái tim khao khát yêu thương, những nỗi đau kỉ niệm tình yêu ấy, ông đã gửi tất cả vào những trang thơ. Và rồi tất cả như trôi trong những giấc mơ của ước ao, hi vọng. Màu áo trắng cũng là màu ánh nắng của Vĩ Dạ mà nhìn vào đó tác giả choáng ngợp, thấy ngây ngất trước sự trong trắng, thanh khiết, cao quý của người yêu.

Hình như giữa những giai nhân áo trắng ấy với thi nhân có một khoảng cách nào đó khiến thi nhân không khỏi không nghi ngờ:

Ở đây sương khói mờ nhân ảnh,
Ai biết tình ai có đậm đà?

Câu thơ đã tả thực cảnh Huế – kinh thành sương khói. Trong màn sương khói đó con người như nhòa đi và có thể tình người cũng nhoè đi? Nhà thơ không tả cảnh mà tả tâm trạng mình, biết bao tình cảm trong câu thơ ấy. Những cô gái Huế kín đáo quá, ẩn hiện trong sương khói, trở nên xa vời quá, liệu khi họ yêu họ có đậm đà chăng? Tác giả đâu dám khẳng định về tình cảm của người con gái Huế, ông chỉ nói:

Ai biết tình ai có đậm đà ?

Lời thơ như nhắc nhở, không phải bộc lộ một sự tuyệt vọng hay hy vọng, đó chỉ là sự thất vọng. Sự thất vọng của một trái tim khao khát yêu thương mà không bao giờ và mãi mãi không có tình yêu trọn vẹn. Bài thơ càng hay càng ngậm ngùi, nó đã khép lại nhưng lòng người vẫn thổn thức. Cả bài thơ được liên kết bởi từ ai mở đầu: Vườn ai mướt quá xanh như ngọc; tiếp đến Thuyền ai đậu bến sông trăng đó; và kết thúc là Ai biết tình ai có đậm đà? Càng làm cho Đây thôn Vĩ Dạ sương khói hơn, huyền bí hơn.

Mẫu 2

        Hàn Mặc Tử một người yêu thiên nhiên, yêu cuộc sống, trân trọng cuộc sống. Ông cũng là người từng yêu và cảm giác dang dở trong tình yêu của mình. Nhưng ông lại là một con người lạc quan, hòa mình vào cảnh sắc thiên nhiên tươi đẹp. Bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ là những tâm sự của ông trước cảnh thiên nhiên thôn Vĩ cùng với nỗi niềm tâm trạng của mình.

Bắt đầu bằng một câu hỏi: Sao anh không về chơi thôn Vĩ? câu hỏi vang lên như một lời trách thầm, nhắn nhủ của nhân vật trữ tình trong tâm trạng vời vợi nhớ mong. Câu thơ bảy chữ nhưng có tới sáu thanh bằng, thanh trắc duy nhất vút lên cuối câu như một nốt nhấn khiến cho lời thơ nhẹ nhàng mà thấm thía những nỗi niềm tiếc nuối vọng lên da diết khôn nguôi. Từ niềm nhớ thương được khơi nguồn như thế, hình ảnh thôn Vĩ chợt sống dậy trong lòng nhà thơ:

Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên.
Vườn ai mướt quá, xanh như ngọc
Lá trúc che ngang mặt chữ điền.

Chỉ ba câu thơ Hàn Mặc Tử đã khắc họa được những nét đặc trưng của thiên nhiên xứ Huế. Mỗi câu thơ là một nét vẽ, mỗi chi tiết sống động tạo thành sự khắc họa sống động đẹp đẽ của thôn Vĩ trong hoài niệm. Trước tiên là vẻ đẹp trong trẻo tinh khôi của buổi sớm mai: nắng hàng cau nắng mới lên không phải là cái nắng chang chang dọc bờ sông trắng mà là cái nắng trong trẻo tinh khôi của một ngày.

Đến câu thơ thứ ba như một tiếng reo đầy ngỡ ngàng thích thú, không phải xanh non xanh biếc mà là xanh như ngọc. Cảnh giản dị mà thanh khiết cao sang vô cùng. Và rất tự nhiên theo mạch cảm xúc, nhắc đến ai lập tức nhà thơ nhớ đến hình bóng con người:

Lá trúc che ngang mặt chữ điền

Hình ảnh cành trúc đã trở nên quen thuộc khi nhắc đến con người nơi đây, mảnh đất cố đô văn hiến. Con người như hòa vào, như ẩn vào thiên nhiên một vẻ đẹp kín đáo tao nhã. Đó là vẻ đẹp riêng trong mảnh đất cố đô nhưng ngay trong dòng cảm xúc miên man ấy ta đã thấy nỗi buồn man mác xa nỗi thấm vào lòng người.

Cảm giác về cái đẹp mơ hồ mong manh ấy càng rõ hơn ở khổ 2 trong bức tranh mây trời sông nước:

Gió theo lối gió, mây đường mây,
Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay…
Thuyền ai đậu bến sông trăng đó,
Có chở trăng về kịp tối nay?

Hai câu đầu là bức tranh có những nét rất đặc trưng của xứ Huế: gió thổi, mây nhẹ trôi, dòng nước lặng lờ và hoa bắp khẽ lay động ven sông. Nhưng ngắm kĩ sẽ thấy đường nét chia lìa, rời rạc của tạo vật, sự sống hiện lên lắt lay, mệt mỏi, âm điệu câu thơ buồn bã, xa vắng. Cái ngược chiều của gió, mây khơi gợi sự chia lìa đôi ngả của tình đời, tình người, như rạch vào nỗi đau thân phận, sự chia lìa xa cách của chủ thể trữ tình khi viết bài thơ này.

Hai câu kết đoạn cũng đem đến ấn tượng về bức tranh tâm cảnh như vậy. Cảnh đẹp xong vẫn thoáng bâng khuâng gợi nên từ những hình ảnh: thuyền ai – sông trăng…Dòng sông dường như bị ảo hóa, không còn là sông nước mà là sông trăng, lấp ánh ánh trăng vàng, là dòng ánh sáng tuôn chảy khắp vũ trụ làm cho không gian thơ trở nên hư ảo.

Đại từ phiếm chỉ “ai” nghe thật mơ hồ xa vắng; và con thuyền chở trăng trên dòng sông kia thật mong manh như một ảo ảnh. Để rồi chỉ cần một chữ “kịp tối nay” là lập tức đủ kéo thi nhân về với thực tại, đối diện với nỗi cô đơn của chính mình.

Ba chữ thôi nhưng gợi lên thật nhiều những khắc khoải, mong ngóng, hi vọng, lo âu, vừa mới khao khát đấy rồi lại chợt vội vàng hoài nghi. Tín hiệu mong chờ thật mong manh nhưng vô cùng da diết. Khao khát của thi nhân hướng tới cái đẹp của tình đời tình người không tránh khỏi những nghi ngại băn khoăn.

Khổ cuối bài thơ là tiếng nói giúp nhà thơ hiểu thêm nỗi thiết tha dường như vô vọng đó:

Mơ khách đường xa, khách đường xa,
Áo em trắng quá nhìn không ra…
Ở đây sương khói mờ nhân ảnh,
Ai biết tình ai có đậm đà?

Hình ảnh “khách đường xa” đã từng xuất hiện trong thơ Hàn Mặc Tử: khách xa gặp lúc mùa xuân chín. Hành trình của người khách từ xa xôi – em – là cả một giấc mộng dài say đắm của Hàn Mặc Tử. Nhà thơ cảm thấy mình chỉ đi song song với tình yêu, hạnh phúc mà không bao giờ nắm bắt được. Phải chăng vì thế mà mọi hình bóng đều xa vời hư ảo: áo em trắng quá nhìn không ra.

Xưa nay xứ Huế vốn bảng lảng sương khói, nhưng còn lí do chủ quan: trái tim trong tà áo trắng kia cũng hư vô bí mật như sương khói. Đó là sương khói của thời gian, hay sương khói của một mối tình mong manh chưa một lời ước hẹn, sương khói phủ lấy một trái tim biết mình sắp từ giã cõi đời sương khói ấy che phủ khiến nhà thơ không thể nhận ra, không thể nắm bắt.

Câu kết bài đọng lại nỗi buồn khắc khoải băn khoăn “ai biết tình ai” có đậm đà không hay chưa kịp nồng trên mà khác đã phôi pha”. Câu thơ gợi lên nhiều cách hiểu; nhà thơ sao có thể biết tình người xứ Huế có đậm đà hay không; người xứ Huế có biết chăng tình cảm của nhà thơ với cô rất đậm đà?

Bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ là một thi phẩm nói lên mối tình đơn phương vô vọng nhưng cũng rất đỗi thiết tha yêu đời của thi nhân Hàn Mặc Tử. Nhắc đến Huế, ta không thể quên bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ, và nhắc đến Hàn Mặc Tử ta càng không thể quên vẻ đẹp của Huế, đặc biệt là không thể quên vẻ đẹp thôn Vĩ trong thi phẩm để đời của ông. Huế đẹp, Huế thơ, xin được mượn bốn câu thơ của Thu Bồn thay cho lời kết gửi đến tình yêu xứ Huế, với thi nhân Hàn Mặc Tử:

Xin chào Huế một lần anh đến
Để ngàn lần anh nhớ trong mơ
Em rất thực nắng thì mờ ảo
Xin đừng lầm em với Cố Đô

Mẫu 3

        Hàn Mặc Tử một trong những “cây bút” tài năng bậc nhất của phong trào thơ mới những năm 1932-1945 với nhiều tác phẩm tiêu biểu. Trong đó, tác phẩm để lại nhiều ấn tượng nhất trong lòng người đọc có lẽ là “Đây thôn Vĩ Dạ”- một bài thơ đặc sắc trong sự nghiệp văn chương của ông. Bài thơ là bức tranh hài hòa giữa khung cảnh thiên nhiên trong trẻo, tinh khôi xứ Huế với bức tranh tâm cảnh của một cái tôi tha thiết yêu đời, khát khao giao cảm với cuộc sống, con người nhưng đầy những âu lo, trăn trở.

Câu hỏi tu từ: “Sao anh không về chơi thôn Vĩ?” như hờn trách nhẹ nhàng lại như lời mời đầy tha thiết của người con gái xứ Huế. Ở đây tác giả không dùng từ “thăm” mà lại dùng từ “chơi” đủ để thấy sự thân thiết, chân thành, mộc mạc, gợi lên được tình cảm thân mật, gần gũi. Và dường như, đó cũng là câu hỏi mà nhà thơ đang tự hỏi chính mình, tự trách chính mình sao bấy lâu chẳng trở về với chốn cũ, người xưa để giờ đây trong cơn bạo bệnh lại chỉ còn những tiếc nuối, băn khoăn.

Từ nỗi nhớ, bức tranh thôn Vĩ dần hiện ra trước mắt người đọc qua từng lời thơ, một bức tranh Vĩ Dạ đầy lung linh, tươi đẹp và căng tràn sức sống:

“Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên”

Cau là loài cây dân dã cũng là linh hồn của làng quê Việt Nam. Trong truyện cổ tích, trầu- cau gắn với tình yêu đôi lứa. Trong câu thơ của Hàn Mặc Tử, câu gắn với nỗi nhớ, với vẻ đẹp của thiên nhiên. Hình ảnh “nắng hàng cau” là một hình ảnh đẹp gợi vẻ tinh khôi, trong trẻo của những tia nắng sớm mai. Màu nắng hàng cau là màu nắng vô cùng mới mẻ mà trước Hàn Mặc tử chưa có thi nhân nào gợi ra được màu nắng ấy.

Những tàu cau được nắng mới bao trùm, nắng hòa vào hạt sương đọng trên phiến lá tạo nên vẻ long lanh đến kiều diễm. Thiên nhiên trở nên thanh thoát, trong trẻo đến lạ lùng, không gian trở nên cao ráo và đầy khoáng đạt. Ánh nắng hàng cau làm sáng bừng lên cả một khu vườn thơ mộng, hữu tình.

Xa xa là bóng hàng cau, khi lại gần, khu vườn càng thêm đẹp, thêm tươi. Có cây ngời ngợi màu xanh sáng, xanh trong, xanh mỡ màng, mượt mà:

“Vườn ai mướt quá xanh như ngọc”

Câu thơ cất lên như sự ngỡ ngàng đến xuýt xoa của tác giả trước vẻ đẹp của tạo hoá được tưới tắm bởi bàn tay khéo léo của người làm vườn. Tính từ “mướt” gợi lên sắc xanh ngời ngợi, ngọc ngà, xuân sắc đầy sức sống của khu vườn. Có thể thấy qua những hình ảnh thơ gần gũi, bình dị mà bằng cách sử dụng ngôn từ độc đáo, bức tranh thôn Vĩ đầy đẹp đẽ, sống động và cao quý được gợi lên.

Cảnh thôn Vĩ ngày càng trở nên hài hòa hơn khi có sự xuất hiện của con người:

“Lá trúc che ngang mặt chữ điền”

Lối nói cách điệu thể hiện vẻ đẹp e ấp, kín đáo, dịu dàng và rất Huế của người con gái. Sự xuất hiện của khuôn mặt chữ điền phúc hậu, dịu dàng đã làm cho bức tranh Vĩ Dạ trở nên sinh động hơn khi có sự hài hòa giữa cảnh vật và con người.

Khổ thơ thứ hai gợi ra cảnh sông nước êm đềm, mang nỗi niềm bâng khuâng, nỗi mong cầu hư ảo:

“Gió theo lối gió mây đường mây
Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay
Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay ? “

Không gian có gió, mây, sông nước, có thơ mộng, có êm đêm những gợi buồn, gợi chia ly. Cảnh chia đôi ngả “gió theo lối gió, mây đường mây” phải chăng chính là sự mặc cảm của nhà thơ về tình yêu xa cách, không thể đồng hành cùng người thương của mình. “Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay” cảnh vật gợi vẽ quạnh quẽ, thê lương, u sầu. Dòng sông buồn như chính tâm trạng thi nhân.

Tứ thơ “Có chở trăng về kịp tối nay?” gửi gắm cả một nỗi niềm của thi nhân, một khao khát vào tình yêu cập bến, để được cùng người tâm sự, tỏ bày. Nỗi ngóng trông, mong chờ, khát khao mãnh liệt được tâm giao được cất lên trong tiếng thơ bình dị. Có chăng, lúc này đây, tác giả đang lo sợ vì vận mệnh ngắn ngủi của cuộc đời mình. Sợ rằng thời gian ngày một ngắn thêm mà lòng người vẫn chưa thể được khỏa lấp nỗi trống vắng, cô đơn, sầu muộn. Liệu con thuyền kia có chở kịp vầng trăng hạnh phúc ấy về với kẻ mệnh bạc này không?

Tình yêu luôn gắn liền với nỗi nhớ bởi nỗi nhớ chính là giai điệu là hợp âm chủ đạo của tình yêu. Thơ xưa nói “nhất nhật bất kiến như tam thu hề” (một ngày không gặp mà ngỡ như đã ba năm). Xuân Quỳnh cũng thể hiện nỗi nhớ người mình yêu ngập tràn khắp nẻo qua những câu thơ trong bài “Sóng”.

Con sóng dưới lòng sâu
Con sóng trên mặt nước
Ôi con sóng nhớ bờ
Ngày đêm không ngủ được
Lòng em nhớ đến anh
Cả trong mơ còn thức

Cả hai đoạn thơ đều thể hiện nỗi nhớ nhung, niềm khát khao gặp gỡ đến cháy bỏng. Đó là khao khát có được hạnh phúc và tình yêu; khao khát được chạm đến yêu thương để khỏa lấp nỗi mong chờ và để được đến với bến bờ hạnh phúc.

Nếu “Sóng” cồn cào nhớ thương đến “ngày đêm không ngủ được” và “cả trong mơ còn thức”; yêu đến nỗi bất chấp cả mọi không gian phương Bắc, phương Nam để được yêu; thì “Đây thôn Vĩ Dạ” lại là tình yêu gắn liền với khắc khoải, chờ mong đến mỏi mòn.

Thực tại phũ phàng, cô đơn ngập lối, tác giả đành tìm đến giấc mơ, nơi đó có thể nhìn thấy người con gái mình yêu, dẫu đó chỉ là chút hạnh phúc trong ảo ảnh:

“Mơ khách đường xa, khách đường xa
Áo em trắng quá nhìn không ra;
Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
Ai biết tình ai có đậm đà?”

Trong giấc mơ mang màu hy vọng, thi nhân thấy vị khách đường xa trong tà áo trắng tinh khôi, ẩn hiện trong sương khói. Bóng hình như nhoè đi rồi biến mất trong phút chốc. Sự thanh khiết, cao quý của người con gái trong ảo ảnh khiến thi nhân không khỏi không lo sợ:

“Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
Ai biết tình ai có đậm đà?”

Trong lời thơ, tác giả phân vân, lo sợ về một tình cảm không chắc chắn. Một trái tim khao khát yêu và được yêu nhưng không bao giờ có được tình yêu trọn vẹn khiến tác giả hoài nghi về tình cảm, về tình yêu của đối phương. Không biết tình người có đậm đà như chính lòng ta chăng?

Bài thơ khép lại bằng một câu hỏi tư từ chất chứa nỗi niềm hoài nghi và thất vọng. Vĩ Dạ đẹp nhưng buồn, lòng người buồn mà đẹp, tất cả tạo nên sự hòa quyện giữa cảnh và tình.

Đây thôn Vĩ Dạ qua bao thế hệ người đọc vẫn mang một sức sống dạt dào. Bài thơ không chỉ là một bức tranh êm đềm và tươi đẹp của Vĩ Dạ mà còn là bức tranh đẹp của một tấm lòng tha thiết với thiên nhiên và khát khao được sống, được yêu của Hàn Mặc Tử.

Mở bài Đây thôn Vĩ Dạ nâng cao

Mẫu 1

        Hàn Mặc Tử, một nhà thơ tài năng của dòng họ Hàn, đã chảy tràn cảm xúc của mình vào những bài thơ đẹp đến nao lòng, và “Đây thôn Vĩ Dạ” là một tác phẩm xuất sắc, là nguồn cảm hứng dồn dập từ tình yêu và những kí ức đẹp thuở ấy. Tưởng chừng như trước cảnh tử thì con người sẽ chỉ ôm lấy nỗi buồn, nhưng chàng thi sĩ Hàn Mặc Tử lại chọn cách đánh rơi những giọt nước mắt cuối cùng lên những dòng thơ cuối cùng của mình. Như một người trăn trở, Hàn Mặc Tử đã lựa chọn làm đẹp những ký ức, những khung cảnh yêu thương nhất trong trí tưởng tượng của mình. “Đây thôn Vĩ Dạ” không chỉ là một bức tranh về xứ Huế tươi đẹp, mà còn là bức tranh về tình yêu thương và niềm đau. Mỗi chi tiết, mỗi từ ngữ trong bài thơ đều là những giọt nước mắt gửi gắm tình cảm sâu sắc của người viết.

Mẫu 2

         “Đây thôn Vĩ Dạ” là như một bản nhạc tinh tế và độc đáo, nhấn mạnh vào vẻ trẻ trung và sự tươi sáng hiếm hoi giữa những nghệ phẩm văn chương đầy ma mị và kỳ dị của thi sĩ Hàn Mặc Tử. Bài thơ như bản hoà ca lãng mạn, làm cho người đọc chìm đắm trong không gian êm đềm và tràn ngập ánh sáng. Trong thế giới văn chương huyền bí và u tối của Hàn Mặc Tử, “Đây thôn Vĩ Dạ” như một bức tranh tươi sáng, là điểm nhấn thuần khiết, là lời hồi đáp cho câu hỏi của Hoàng Thị Kim Cúc.

Mẫu 3

         “Trước không có ai, sau không có ai, Hàn Mặc Tử như ngôi sao chổi với cái đuôi chói lòa rực rỡ”. Trong làng thơ mới, Hàn Mặc Tử là thi sĩ có diện mạo thơ vô cùng phức tạp và bí ẩn. Thơ Hàn có sự đan xen cả những gì thân thuộc, thanh khiết nhất, cả những gì ghê rợn, ma quái, cuồng loạn nhất. Trong thế giới đó, trăng, hoa, nhạc, hương hòa lẫn với linh hồn, yêu ma. Đằng sau diện mạo thơ hết sức phức tạp ấy, ta thấy hằn lên tình yêu mãnh liệt đến đau đớn hướng về cuộc đời. In trong tập “Thơ Điên”, “Đây thôn Vĩ Dạ” là những vần thơ tinh khôi trong trẻo trong gia tài Hàn Mặc Tử mà vẫn ẩn chứa tình yêu đau đớn hướng về cuộc đời như thế.

Mẫu 4

             Hàn Mặc Tử được biết đến với những vần “thơ điên” kì dị, ám ảnh. Hình ảnh trăng và máu thường xuyên trở đi trở lại trong thơ Hàn Mặc Tử và trở thành biểu tượng cho phong cách thơ, tài năng và con người tài hoa nhưng nhiều đau khổ của ông. Tuy nhiên trong thế giới điên cuồng và kỳ dị ấy ta vẫn bắt gặp một nỗi khắc khoải đau đớn của một cái tôi yêu đời, yêu cuộc sống. Đây thôn Vĩ Dạ là bài thơ Hàn Mặc Tử viết về thôn Vĩ, là lời hồi đáp cho lời mời “Sao anh không về chơi thôn Vĩ?” của một người con gái xứ Huế. Đây cũng là một trong những bài thơ hay và tiêu biểu nhất trong phong trào thơ Mới ở Việt Nam.

Mẫu 5

            Trước sự đa dạng và phong phú của thế giới thơ Việt Nam, một tên tuổi nổi bật tỏa sáng giữa trung tâm của trường thơ Mới, đó là Hàn Mặc Tử – người đã đặt nền móng cho trường phái thơ Loạn. Bước chân của ông in dấu không chỉ qua những vần thơ điên cuồng, mà còn là những lối đi sáng tạo mạnh mẽ,  những đợt sóng triệt hạng trong vũ trụ nghệ thuật. Nhưng nổi bật hơn cả, đây thôn Vĩ Dạ, một bức tranh thơ đầy màu sắc và cảm xúc, thể hiện tình yêu sâu sắc của ông đối với cuộc sống và con người. Đây thôn Vĩ Dạ không chỉ là một tác phẩm, mà còn là một chân trời tinh thần, nơi Hàn Mặc Tử thể hiện lòng yêu đời yêu cuộc sống. Hòa mình trong thế giới thơ điên, ông đã khám phá những khía cạnh mới mẻ, làm phong phú thêm nền văn hóa thơ ca của Việt Nam.

Trên đây là tổng hợp các mẫu mở bài Đây thôn Vĩ Dạ xuất sắc nhất mà chúng tôi đã chọn lọc được, hy vọng những mẫu văn này sẽ giúp cho các bạn có được những bài văn hay. Chúc các bạn có những bài văn thật tốt và đạt được điểm cao tuyệt đối trong các kì thi.