Soạn bài Đối thoại, độc thoại và độc thoại nội tâm trong văn bản tự sự

Hướng dẫn soạn bài Đối thoại, độc thoại và độc thoại nội tâm trong văn bản tự sự  – Ngữ văn 9 chi tiết, đầy đủ nhất. Thông qua việc thực hành trả lời các câu hỏi trong phần hướng dẫn và bài tập, chúng ta có thể củng cố kiến thức cơ bản về tác phẩm này.

I – Tìm hiểu yếu tố đối thoại, độc thoại và độc thoại nội tâm trong văn bản tự sự
Câu 1: (Trang 176, SGK Ngữ Văn 9 Tập 1)
1. Đọc đoạn trích sau:
2. Suy nghĩ và trả lời câu hỏi:
a, Trong ba câu đầu đoạn trích, có ít nhất hai người tham gia câu chuyện. Đó là ông Hai và một người lạ mặt.

  • Dấu hiệu cho ta thấy đó là một cuộc trò chuyện trao đổi qua lại:
    • Câu đầu là một câu hỏi, thể hiện ý muốn hỏi han, tìm hiểu thông tin của người lạ mặt.
    • Câu thứ hai là câu trả lời của ông Hai, thể hiện sự ngỡ ngàng, bàng hoàng trước tin làng Chợ Dầu theo giặc.
    • Câu thứ ba là câu tiếp tục của người lạ mặt, thể hiện thái độ mỉa mai, châm biếm, chỉ trích làng Chợ Dầu.

Cụ thể, qua ba câu đầu đoạn trích, ta có thể hình dung ra cuộc trò chuyện như sau:

  • Người lạ mặt: Sao bảo làng Chợ Dầu tinh thần lắm cơ mà ?
  • Ông Hai: Ấy thế mà bây giờ đổ đốn ra thế đấy !
  • Người lạ mặt: Cha mẹ tiên sư nhà chúng nó ! Đói khổ ăn cắp ăn trộm bắt được người ta còn thương. Cái giống Việt gian bán nước thì cứ cho mỗi đứa một nhát

Cuộc trò chuyện này diễn ra ở quán nước giữa ông Hai và một người lạ mặt. Người lạ mặt là một người tản cư lên, ông ta nghe tin làng Chợ Dầu theo giặc nên đã hỏi han ông Hai. Ông Hai nghe tin này vô cùng đau đớn, tủi hổ. Ông cố gắng tỏ ra bình tĩnh, nhưng thực ra trong lòng ông đang vô cùng bức xúc. Người lạ mặt thì tỏ ra mỉa mai, châm biếm, chỉ trích làng Chợ Dầu.

Cuộc trò chuyện này đã khiến cho tâm trạng của ông Hai vô cùng nặng nề, đau khổ. Ông đã phải lảng đi để tránh mặt đám người tản cư. Về đến nhà, ông nằm vật ra giường, không ăn uống gì. Nhìn lũ con, ông càng thấy tủi hổ, đau đớn hơn. Ông rít lên trong đau đớn: “Chúng bay ăn miếng cơm hay miếng gì vào mồm mà đi làm cái giống Việt gian bán nước để nhục nhã thế này.”

b, Trong câu “Hà, nắng gớm, về nào…”, ông Hai nói với chính mình.

  • Dấu hiệu cho ta thấy đây là một câu tự thoại:
    • Câu này được nói với giọng điệu tự nhiên, không có đối tượng giao tiếp cụ thể.
    • Câu này thể hiện tâm trạng, suy nghĩ của ông Hai, không nhằm mục đích giao tiếp với người khác.

Câu “Hà, nắng gớm, về nào…” là một câu tự thoại vì nó có những đặc điểm sau:

  • Câu này được nói với giọng điệu tự nhiên, không có đối tượng giao tiếp cụ thể. Ông Hai nói câu này trong lúc đang ở quán nước, nhưng không có ai khác ở đó. Ông nói câu này như để tự nhắc nhở mình, để cố gắng bình tĩnh, không để cho người khác nhìn thấy sự đau đớn, tủi hổ của mình.
  • Câu này thể hiện tâm trạng, suy nghĩ của ông Hai, không nhằm mục đích giao tiếp với người khác. Câu này thể hiện tâm trạng buồn bã, chán nản của ông Hai khi nghe tin làng Chợ Dầu theo giặc. Ông Hai muốn nhanh chóng rời khỏi quán nước, về nhà để tránh mặt mọi người.

Trong đoạn trích còn có một câu tự thoại của ông Hai là:

“Chúng bay ăn miếng cơm hay miếng gì vào mồm mà đi làm cái giống Việt gian bán nước để nhục nhã thế này.”

Câu này cũng được nói với giọng điệu tự nhiên, không có đối tượng giao tiếp cụ thể. Câu này thể hiện sự căm phẫn, uất ức của ông Hai khi nghĩ về những người làng Chợ Dầu theo giặc. Ông Hai không thể hiểu nổi vì sao những người cùng làng với mình lại có thể trở thành “giặc”. Ông cảm thấy nhục nhã, xấu hổ khi nghĩ rằng những đứa con của mình cũng bị người ta rẻ rúng, hắt hủi vì là con của làng Việt gian.

c, Những câu như “Chúng nó cũng là trẻ con làng Việt gian đấy ư ? Chúng nó cũng bị người ta rẻ rúng hắt hủi đấy ư ? Khốn nạn, bằng ấy tuổi đầu…” là những câu tự hỏi của ông Hai.

  • Dấu hiệu cho ta thấy đây là những câu tự hỏi:
    • Câu này được nói với giọng điệu tự nhiên, không có đối tượng giao tiếp cụ thể.
    • Câu này thể hiện tâm trạng, suy nghĩ của ông Hai, không nhằm mục đích giao tiếp với người khác.

Những câu này là những lời tự hỏi của ông Hai khi ông đang ở trong trạng thái đau khổ, tủi nhục vì tin làng Chợ Dầu theo giặc. Ông không thể hiểu nổi vì sao những người cùng làng với mình lại có thể trở thành “giặc”. Ông cảm thấy nhục nhã, xấu hổ khi nghĩ rằng những đứa con của mình cũng bị người ta rẻ rúng, hắt hủi vì là con của làng Việt gian.

Trước những câu này không có gạch đầu dòng như những câu đã nêu ở điểm (a) và (b) vì:

  • Những câu này không phải là những câu thoại, không phải là những câu hỏi của một người với người khác.
  • Những câu này là những câu tự hỏi, thể hiện tâm trạng, suy nghĩ của nhân vật.

Việc không có gạch đầu dòng trước những câu này giúp người đọc dễ dàng phân biệt được những câu thoại với những câu tự hỏi, đồng thời giúp người đọc tập trung vào nội dung của câu, không bị phân tâm bởi những dấu hiệu hình thức.

d, Các hình thức diễn đạt trên có tác dụng như sau:

  • Thể hiện diễn biến của câu chuyện:
    • Câu hỏi của người lạ mặt đã khiến ông Hai bị sốc, bàng hoàng.
    • Câu trả lời của ông Hai thể hiện sự ngỡ ngàng, phủ nhận tin làng Chợ Dầu theo giặc.
    • Câu nói “Hà, nắng gớm, về nào…” thể hiện sự cố gắng bình tĩnh của ông Hai.
    • Hành động “vờ vờ lảng ra chỗ khác” và “đi thẳng” thể hiện sự đau khổ, tủi nhục của ông Hai.
    • Câu nói của người đàn bà cho con bú thể hiện thái độ căm phẫn, uất ức của những người tản cư đối với làng Chợ Dầu.
    • Hành động “cúi gằm mặt xuống mà đi” thể hiện sự suy sụp, đau khổ của ông Hai.
    • Câu tự hỏi “Chúng nó cũng là trẻ con làng Việt gian đấy ư ? Chúng nó cũng bị người ta rẻ rúng hắt hủi đấy ư ?” thể hiện sự lo lắng, xót xa của ông Hai.
    • Câu nói “Chúng bay ăn miếng cơm hay miếng gì vào mồm mà đi làm cái giống Việt gian bán nước để nhục nhã thế này” thể hiện sự căm phẫn, uất ức của ông Hai đối với những người làng Chợ Dầu theo giặc.
  • Thể hiện thái độ của những người tản cư trong buổi trưa ông Hai gặp họ:
    • Thái độ của những người tản cư trong buổi trưa ông Hai gặp họ là căm phẫn, uất ức đối với làng Chợ Dầu. Họ cho rằng làng Chợ Dầu theo giặc là một hành động đáng xấu hổ, nhục nhã.
    • Thái độ này được thể hiện qua câu nói của người đàn bà cho con bú: “Cha mẹ tiên sư nhà chúng nó ! Đói khổ ăn cắp ăn trộm bắt được người ta còn thương. Cái giống Việt gian bán nước thì cứ cho mỗi đứa một nhát!”.
  • Giúp nhà văn thể hiện thành công những diễn biến tâm lí của nhân vật ông Hai:
    • Câu hỏi của người lạ mặt đã khiến ông Hai bị sốc, bàng hoàng. Ông không thể tin được rằng làng Chợ Dầu, làng của ông, làng của những người yêu nước, kháng chiến lại theo giặc.
    • Câu trả lời của ông Hai thể hiện sự ngỡ ngàng, phủ nhận tin làng Chợ Dầu theo giặc. Ông Hai không muốn tin rằng làng của mình lại trở thành “làng Việt gian”.
    • Câu nói “Hà, nắng gớm, về nào…” thể hiện sự cố gắng bình tĩnh của ông Hai. Ông cố gắng tỏ ra bình tĩnh trước tin dữ, không để cho người khác nhìn thấy sự đau khổ, tủi nhục của mình.
    • Hành động “vờ vờ lảng ra chỗ khác” và “đi thẳng” thể hiện sự đau khổ, tủi nhục của ông Hai. Ông không muốn tiếp tục ở lại nơi mà những người tản cư đang xì xào bàn tán về làng Chợ Dầu.
    • Câu nói của người đàn bà cho con bú đã khiến ông Hai suy sụp, đau khổ. Ông cảm thấy nhục nhã, xấu hổ khi nghĩ rằng những đứa con của mình cũng bị người ta rẻ rúng, hắt hủi vì là con của làng Việt gian.
    • Câu tự hỏi “Chúng nó cũng là trẻ con làng Việt gian đấy ư ? Chúng nó cũng bị người ta rẻ rúng hắt hủi đấy ư ?” thể hiện sự lo lắng, xót xa của ông Hai. Ông lo lắng cho tương lai của những đứa con của mình.
    • Câu nói “Chúng bay ăn miếng cơm hay miếng gì vào mồm mà đi làm cái giống Việt gian bán nước để nhục nhã thế này” thể hiện sự căm phẫn, uất ức của ông Hai đối với những người làng Chợ Dầu theo giặc. Ông không thể hiểu nổi vì sao những người cùng làng với mình lại có thể trở thành “giặc”.

Tóm lại, các hình thức diễn đạt trên đã góp phần quan trọng trong việc thể hiện diễn biến của câu chuyện, thái độ của những người tản cư và đặc biệt là những diễn biến tâm lí của nhân vật ông Hai.

II – Luyện Tập
Câu 1: (Trang 178, SGK Ngữ Văn 9 Tập 1)
Tác dụng của hình thức đối thoại trong đoạn trích:

  • Tạo nên không khí căng thẳng, ngột ngạt trong gia đình ông Hai.
    • Đối thoại giữa ông Hai và bà Hai diễn ra trong đêm khuya, khi cả nhà đã đi ngủ. Đây là thời gian mọi người cần được nghỉ ngơi, thư giãn. Tuy nhiên, ông Hai lại không thể ngủ được vì nỗi đau đớn, tủi hổ khi nghe tin làng mình theo giặc. Ông Hai gắt lên với bà Hai “Biết rồi!” thể hiện sự bực bội, khó chịu. Bà Hai cũng im lặng, không nói gì. Gian nhà trở nên im ắng, hiu hắt.
  • Thể hiện sự đau khổ, tủi hổ của ông Hai.
    • Câu trả lời “Biết rồi!” của ông Hai thể hiện sự đau khổ, tủi hổ tột cùng của ông. Ông Hai không muốn nghe lại tin làng mình theo giặc thêm một lần nào nữa. Ông đau khổ, tủi hổ đến mức không muốn nói chuyện với ai, kể cả với vợ mình.
  • Tạo nên sự đồng cảm, xót xa cho người đọc.
    • Qua đoạn đối thoại, người đọc có thể cảm nhận được nỗi đau khổ, tủi hổ của ông Hai. Ông là một người yêu nước, yêu làng tha thiết. Khi nghe tin làng mình theo giặc, ông cảm thấy như chính mình bị người ta tước đoạt đi tất cả những gì quý giá nhất. Nỗi đau khổ, tủi hổ của ông Hai là nỗi đau chung của tất cả những người yêu nước, yêu quê hương, đất nước.

Kết luận:
Hình thức đối thoại trong đoạn trích đã góp phần quan trọng trong việc thể hiện tâm trạng nhân vật, tạo nên không khí căng thẳng, ngột ngạt trong gia đình ông Hai và gây được sự đồng cảm, xót xa cho người đọc.

Câu 2: (Trang 179, SGK Ngữ Văn 9 Tập 1)
Đề bài: Kể về một lần em mắc lỗi và được bố mẹ nhắc nhở.
Đoạn văn:
Hôm đó, em đang chơi đùa với bạn ở sân trường thì bỗng nhiên thấy một chiếc xe đạp để ở gần đó. Em nghĩ thầm: “Chiếc xe đạp này trông có vẻ đẹp và mới lắm. Hay mình thử đạp thử xem sao?”. Nghĩ là làm, em liền chạy đến lấy chiếc xe đạp và bắt đầu đạp.

Đang đạp xe vui vẻ thì bỗng nhiên, một người phụ nữ chạy tới, giật lấy chiếc xe đạp và quát to: “Cháu lấy xe của ai mà lại dám đạp đi?”. Em vô cùng hoảng sợ, lí nhí trả lời: “Dạ… cháu không biết. Cháu chỉ thấy xe để ở đây nên cháu lấy đạp thử thôi ạ”.

Người phụ nữ nghe vậy càng thêm tức giận, bà ta nói: “Cháu không biết thì thôi, nhưng cháu phải trả xe cho bà ngay bây giờ”. Em cúi gằm mặt, lí nhí xin lỗi bà. Bà phụ nữ cũng không giận em nữa, bà chỉ nhắc nhở em: “Lần sau cháu không được lấy đồ của người khác khi chưa được phép nhé. Nếu cháu làm vậy nữa thì sẽ bị phạt đấy”.

Em nghe lời bà phụ nữ, trả xe lại cho bà rồi chạy về nhà. Trên đường đi, em cứ nghĩ lại chuyện vừa xảy ra và cảm thấy vô cùng hối hận. Em tự nhủ với bản thân rằng sẽ không bao giờ làm như vậy nữa.

Về đến nhà, em kể lại cho bố mẹ nghe chuyện vừa xảy ra. Bố mẹ em nghe xong, không những không mắng em mà còn nhẹ nhàng nhắc nhở: “Con biết lỗi rồi thì lần sau phải cẩn thận hơn. Con không được lấy đồ của người khác khi chưa được phép, dù đó là đồ gì đi nữa. Nếu con làm vậy thì sẽ bị người khác đánh mắng, thậm chí là bị phạt”.

Em nghe lời bố mẹ, hứa sẽ không bao giờ mắc lỗi như vậy nữa. Em cũng hiểu rằng, bố mẹ nhắc nhở mình là vì muốn mình trở thành một người tốt. Em sẽ cố gắng học tập và rèn luyện bản thân để trở thành một con ngoan trò giỏi, xứng đáng với sự mong đợi của bố mẹ.

Trong đoạn văn này, em đã sử dụng cả hình thức đối thoại, độc thoại và độc thoại nội tâm để kể chuyện.

  • Đối thoại: Em và người phụ nữ, em và bố mẹ.
  • Độc thoại: Em tự nhủ với bản thân rằng sẽ không bao giờ làm như vậy nữa.
  • Độc thoại nội tâm: Em nghĩ thầm: “Chiếc xe đạp này trông có vẻ đẹp và mới lắm. Hay mình thử đạp thử xem sao?”.

Hình thức đối thoại và độc thoại được sử dụng để thể hiện các tình huống giao tiếp giữa các nhân vật trong câu chuyện. Hình thức độc thoại nội tâm được sử dụng để thể hiện suy nghĩ, cảm xúc của nhân vật. Qua đó, người đọc có thể hiểu rõ hơn về tâm trạng, suy nghĩ của nhân vật, từ đó cảm thông và chia sẻ với nhân vật.

     Với những hướng dẫn soạn bài Đối thoại, độc thoại và độc thoại nội tâm trong văn bản tự sự  – Ngữ văn 9 chi tiết như trên. Hy vọng sẽ giúp các bạn nắm được những ý chính của tác phẩm này. Chúc các bạn có những bài soạn thật tốt, để thuận tiện trong quá trình tiếp thu bài giảng.