Soạn bài Một thời đại trong thi ca
Hướng dẫn Soạn bài Một thời đại trong thi ca chi tiết, đầy đủ nhất. Thông qua việc thực hành trả lời các câu hỏi trong phần hướng dẫn và bài tập, chúng ta có thể củng cố kiến thức cơ bản về tác phẩm này.
Phần đọc – hiểu văn bản
Câu 1 (trang 104 sgk Ngữ văn lớp 11 Tập 2):
Theo tác giả Hoài Thanh, cái khó trong việc tìm ra tinh thần của thơ mới là:
- Thơ mới là một trào lưu văn học mới mẻ, khác biệt so với thơ cũ. Thơ cũ có những quy tắc, khuôn mẫu nhất định, còn thơ mới phá vỡ những quy tắc, khuôn mẫu đó. Điều này khiến cho việc tìm ra tinh thần của thơ mới trở nên khó khăn hơn.
- Thơ mới là một trào lưu văn học đa dạng, phong phú. Mỗi nhà thơ có một phong cách thơ riêng, không giống nhau. Điều này khiến cho việc tìm ra tinh thần chung của thơ mới trở nên khó khăn hơn.
Để nhận diện tinh thần của thơ mới, Hoài Thanh đã nêu ra những cách sau:
- Dựa vào những đổi mới về nội dung, tư tưởng. Thơ mới đã mang đến một cái nhìn mới mẻ về thế giới và con người. Thơ mới đề cao cá nhân, đề cao cái tôi cá nhân. Thơ mới cũng thể hiện tâm trạng buồn bã, thất vọng, chán chường của con người trước thời cuộc.
- Dựa vào những đổi mới về hình thức nghệ thuật. Thơ mới đã sử dụng nhiều hình thức nghệ thuật mới, hiện đại. Thơ mới sử dụng nhiều thể thơ mới, như thơ tự do, thơ ngũ ngôn trường thiên, thơ thất ngôn trường thiên,… Thơ mới cũng sử dụng nhiều thủ pháp nghệ thuật mới, như tượng trưng, tượng trưng, ẩn dụ,…
Cụ thể, Hoài Thanh đã đưa ra những nhận định sau về tinh thần của thơ mới:
- Thơ mới là một cuộc cách mạng trong thi ca. Thơ mới đã phá vỡ những quy tắc, khuôn mẫu của thơ cũ, mang đến một cái nhìn mới mẻ về thế giới và con người.
- Thơ mới là tiếng nói của cái tôi cá nhân. Thơ mới đề cao cá nhân, đề cao cái tôi cá nhân. Thơ mới thể hiện tâm trạng buồn bã, thất vọng, chán chường của con người trước thời cuộc.
- Thơ mới là một thành tựu lớn của văn học Việt Nam. Thơ mới đã có những đóng góp to lớn cho sự phát triển của văn học Việt Nam.
Những nhận định của Hoài Thanh về tinh thần của thơ mới là có cơ sở và thuyết phục. Những nhận định này đã giúp chúng ta hiểu rõ hơn về một trào lưu văn học lớn trong lịch sử văn học Việt Nam.
Câu 2 (trang 104 sgk Ngữ văn lớp 11 Tập 2):
Theo Hoài Thanh, điều cốt lõi mà các nhà thơ mới đã đưa đến cho Thi Đàn Việt Nam bấy giờ là:
- Cái tôi cá nhân: Thơ mới đã đề cao cái tôi cá nhân, thể hiện những cảm xúc, suy tư, tâm trạng của người nghệ sĩ trước cuộc đời. Điều này đã tạo nên một sự thay đổi lớn trong thi ca Việt Nam, vốn đề cao cái chung, cái cộng đồng.
- Những đổi mới về hình thức nghệ thuật: Thơ mới đã sử dụng nhiều thể thơ mới, như thơ tự do, thơ ngũ ngôn trường thiên, thơ thất ngôn trường thiên,… Thơ mới cũng sử dụng nhiều thủ pháp nghệ thuật mới, như tượng trưng, tượng trưng, ẩn dụ,… Những đổi mới này đã giúp cho thơ mới trở nên phong phú, đa dạng và có sức biểu đạt cao hơn.
Cụ thể, Hoài Thanh đã nhận định:
“Thơ mới là một cuộc cách mạng trong thi ca. Nó đã phá vỡ những quy tắc, khuôn mẫu của thơ cũ, mang đến một cái nhìn mới mẻ về thế giới và con người. Nó là tiếng nói của cái tôi cá nhân, thể hiện tâm trạng buồn bã, thất vọng, chán chường của con người trước thời cuộc. Nó đã có những đóng góp to lớn cho sự phát triển của văn học Việt Nam.”
Những điều cốt lõi mà các nhà thơ mới đã đưa đến cho Thi Đàn Việt Nam bấy giờ đã có những ảnh hưởng sâu sắc đến sự phát triển của thơ ca Việt Nam. Thơ mới đã mở ra một thời đại mới trong thi ca Việt Nam, thời đại của cái tôi cá nhân và những đổi mới về hình thức nghệ thuật.
Câu 3 (trang 104 sgk Ngữ văn lớp 11 Tập 2):
Thơ mới là một trào lưu văn học mới mẻ, xuất hiện ở Việt Nam vào đầu thế kỉ XX. Thơ mới đã có những đổi mới quan trọng về nội dung và hình thức, trong đó có sự đề cao cái tôi cá nhân.
Trong bài “Một thời đại trong thi ca”, Hoài Thanh đã nhận định: “Chữ tôi với cái nghĩa tuyệt đối của nó, bây giờ mới xuất hiện trong văn học ta, và đã trở thành một nguồn thi hứng vô tận”.
Vậy tại sao tác giả lại nói chữ tôi với cái nghĩa tuyệt đối của nó lại đáng thương và tội nghiệp?
Thứ nhất, chữ tôi với cái nghĩa tuyệt đối của nó là một sự cách tân trong văn học Việt Nam. Trước đó, văn học Việt Nam vốn đề cao cái chung, cái cộng đồng. Các nhà thơ thường sử dụng đại từ “ta”, “chúng ta” để thể hiện tâm trạng, cảm xúc của mình. Việc sử dụng chữ “tôi” với cái nghĩa tuyệt đối của nó thể hiện sự đề cao cái tôi cá nhân, thể hiện những suy nghĩ, cảm xúc riêng tư của nhà thơ.
Tuy nhiên, sự đề cao cái tôi cá nhân trong thơ mới lại gặp phải nhiều khó khăn, thử thách.
Thứ hai, chữ tôi với cái nghĩa tuyệt đối của nó thường gắn liền với những tâm trạng, cảm xúc buồn bã, thất vọng, chán chường của nhà thơ trước thời cuộc.
Thơ mới ra đời trong bối cảnh đất nước Việt Nam đang chìm trong đêm tối của chế độ phong kiến. Triều đình mục nát, nhân dân lầm than. Những nhà thơ mới đã cảm nhận được nỗi đau của đất nước, của nhân dân, và họ đã thể hiện những tâm trạng, cảm xúc đó trong thơ của mình.
Những tâm trạng, cảm xúc ấy thường là những tâm trạng, cảm xúc buồn bã, thất vọng, chán chường. Nhà thơ cảm thấy cô đơn, lạc lõng, không tìm thấy được lối thoát cho mình.
Sự kết hợp giữa sự đề cao cái tôi cá nhân và những tâm trạng, cảm xúc buồn bã, thất vọng, chán chường đã khiến cho chữ tôi với cái nghĩa tuyệt đối của nó trở nên đáng thương và tội nghiệp.
**Cụ thể, trong bài thơ “Tình già”, Huy Cận đã thể hiện tâm trạng buồn bã, thất vọng của mình trước thời cuộc:
“Trời đất bao la,
Người đi đâu hết?
Đâu còn tiếng cười,
Đâu còn niềm vui?”
**Trong bài thơ “Lưu biệt” của Lưu Trọng Lư, nhà thơ cũng thể hiện tâm trạng cô đơn, lạc lõng của mình:
“Lưu biệt
Trời đất bao la
Tôi là chiếc lá nhỏ
Bước đi trong gió”
Chữ tôi với cái nghĩa tuyệt đối của nó trong thơ mới đã thể hiện một cách chân thực những tâm trạng, cảm xúc của nhà thơ trước thời cuộc. Đó là những tâm trạng, cảm xúc đáng thương và tội nghiệp, nhưng cũng rất đáng trân trọng.
Chữ tôi với cái nghĩa tuyệt đối của nó đã góp phần làm nên sự thành công của thơ mới. Nó đã giúp thơ mới trở nên phong phú, đa dạng và có sức biểu đạt cao hơn.
Câu 4 (trang 104 sgk Ngữ văn lớp 11 Tập 2):
Các nhà thơ lãng mạn cũng như người thanh niên bấy giờ đã giải tỏa bi kịch đời mình bằng nhiều cách khác nhau, cả tích cực và tiêu cực.
**Cách giải tỏa bi kịch tích cực
- Thông qua thơ ca: Thơ ca là một phương tiện tuyệt vời để các nhà thơ lãng mạn và người thanh niên bấy giờ thể hiện những tâm trạng, cảm xúc của mình. Họ đã viết lên những bài thơ thể hiện tâm trạng buồn bã, thất vọng, chán chường trước thời cuộc. Những bài thơ này đã giúp họ giải tỏa những nỗi niềm, tâm sự trong lòng.
- Thông qua hành động cách mạng: Một số nhà thơ lãng mạn đã tham gia vào phong trào cách mạng, coi đó là con đường giải phóng dân tộc và giải phóng con người. Hành động cách mạng đã giúp họ tìm thấy niềm tin và hy vọng vào tương lai.
**Cách giải tỏa bi kịch tiêu cực
- Thông qua lối sống buông thả: Một số nhà thơ lãng mạn đã tìm đến lối sống buông thả để giải tỏa những tâm trạng, cảm xúc của mình. Họ sống phóng túng, hưởng lạc, không quan tâm đến đạo đức và trách nhiệm.
- Thông qua cái chết: Một số nhà thơ lãng mạn đã chọn cái chết để giải thoát cho mình khỏi những bi kịch của cuộc đời.
**Có thể thấy, các nhà thơ lãng mạn cũng như người thanh niên bấy giờ đã có những cách giải tỏa bi kịch đời mình khác nhau. Tuy nhiên, dù là cách giải tỏa tích cực hay tiêu cực, thì tất cả đều thể hiện tâm trạng, cảm xúc của họ trước thời cuộc.
Câu 5 (trang 104 sgk Ngữ văn lớp 11 Tập 2):
Một Thời Đại Trong Thi Ca là một tiểu luận phức tạp và phong phú, nhưng người đọc vẫn thấy dễ hiểu và hấp dẫn bởi một số yếu tố sau:
- Tác giả đã sử dụng một lối viết giản dị, gần gũi, dễ hiểu. Hoài Thanh đã sử dụng những từ ngữ, hình ảnh quen thuộc trong đời sống để diễn đạt những khái niệm trừu tượng. Ví dụ, khi nói về cái tôi cá nhân, ông đã ví nó như “một mảnh hồn trong trẻo, phẳng lặng”. Cách viết này khiến cho người đọc dễ dàng tiếp nhận những ý tưởng của tác giả.
- Tác giả đã sử dụng những dẫn chứng cụ thể, sinh động từ thơ ca. Hoài Thanh đã trích dẫn nhiều bài thơ của các nhà thơ mới để minh họa cho những luận điểm của mình. Việc sử dụng dẫn chứng cụ thể đã giúp cho người đọc hiểu rõ hơn về những đặc điểm của thơ mới.
- Tác giả đã sử dụng một giọng điệu nhẹ nhàng, sâu lắng, giàu cảm xúc. Hoài Thanh đã thể hiện sự đồng cảm, thấu hiểu với những tâm trạng, cảm xúc của các nhà thơ mới. Giọng điệu của tác giả đã giúp cho người đọc cảm nhận được những giá trị tinh thần của thơ mới.
Ngoài ra, Một Thời Đại Trong Thi Ca còn là một tiểu luận có giá trị lịch sử và văn hóa. Tiểu luận đã góp phần đánh giá đúng đắn về phong trào Thơ mới, một trong những trào lưu văn học quan trọng nhất trong lịch sử văn học Việt Nam. Điều này cũng góp phần khiến cho người đọc thấy tiểu luận này hấp dẫn và đáng đọc.
Có thể nói, Một Thời Đại Trong Thi Ca là một tiểu luận xuất sắc, vừa có giá trị khoa học, vừa có giá trị nghệ thuật. Tiểu luận đã góp phần làm phong phú thêm kho tàng văn học Việt Nam.
Phần luyện tập
Câu 1 (trang 104 sgk Ngữ văn lớp 11 Tập 2):
Theo quan niệm của Hoài Thanh, chữ “tôi” và chữ “ta” trong thơ mới và thơ cũ có những khác biệt cơ bản sau:
Chữ “ta” trong thơ cũ
- Chữ “ta” trong thơ cũ thường mang ý nghĩa chung chung, đại diện cho cộng đồng, dân tộc. Các nhà thơ xưa thường sử dụng chữ “ta” để thể hiện tình yêu nước, lòng yêu quê hương, đất nước,… Ví dụ:
“Đất nước bốn nghìn năm
Văn hiến chở bao đời con cháu
Hiền tài là ai đất cảu ta
Cho dựng nền thái bình muôn thuở”
(“Nước Đại Việt ta” – Nguyễn Trãi)
- Chữ “ta” trong thơ cũ cũng có thể mang ý nghĩa cá nhân, nhưng chỉ là cái tôi cá nhân hòa nhập vào cộng đồng, dân tộc. Các nhà thơ xưa thường sử dụng chữ “ta” để thể hiện những tâm trạng, cảm xúc chung của con người, của dân tộc. Ví dụ:
“Cảm ơn trời đất cho ta
Một cuộc đời đẹp như mơ”
(Cảm ơn trời đất cho ta – Nguyễn Công Trứ)
Chữ “tôi” trong thơ mới
- Chữ “tôi” trong thơ mới mang ý nghĩa tuyệt đối, thể hiện cái tôi cá nhân riêng biệt, độc đáo của nhà thơ. Các nhà thơ mới đã đề cao cái tôi cá nhân, thể hiện những cảm xúc, suy tư, tâm trạng của mình trước cuộc đời. Ví dụ:
“Lòng tôi rộng như sông
Tình tôi cao như trời
Đất nước bao la
Mênh mông biển Thái Bình”
(Lòng tôi rộng như sông – Xuân Diệu)
- Chữ “tôi” trong thơ mới cũng có thể mang ý nghĩa tiêu cực, thể hiện những tâm trạng, cảm xúc bế tắc, chán chường của nhà thơ trước thời cuộc. Ví dụ:
“Sầu trăm ngả sầu lên ngàn
Trời đất bao la sầu lên ngàn
Ta đi giữa mộng và đời
Sầu trăm ngả sầu lên ngàn”
(Tình già – Huy Cận)
Như vậy, chữ “tôi” và chữ “ta” trong thơ mới và thơ cũ có những khác biệt cơ bản về ý nghĩa. Sự khác biệt này thể hiện sự thay đổi quan trọng trong tư tưởng và tình cảm của người dân Việt Nam trong thời kỳ đầu thế kỷ XX.
Câu 2 (trang 104 sgk Ngữ văn lớp 11 Tập 2):
Lòng yêu nước của các nhà thơ mới đã được biểu lộ qua nhiều cách khác nhau, cả trực tiếp và gián tiếp.
Trực tiếp
- Thể hiện qua những bài thơ viết về quê hương, đất nước. Trong thơ mới, quê hương, đất nước không chỉ là những hình ảnh đẹp đẽ, thơ mộng, mà còn là biểu tượng của lòng yêu nước. Các nhà thơ mới đã viết về quê hương, đất nước với những tình cảm chân thành, tha thiết. Ví dụ:
“Lòng tôi rộng như sông
Tình tôi cao như trời
Đất nước bao la
Mênh mông biển Thái Bình”
(Lòng tôi rộng như sông – Xuân Diệu)
“Quê hương anh nước mặn đồng chua
Làng anh nghèo đất cày lên sỏi đá
Anh đi bộ đội xa nhà
Mẹ già lo lắng tóc bạc thêm xanh”
(Quê hương – Đỗ Trung Quân)
- Thể hiện qua những bài thơ thể hiện niềm tự hào dân tộc. Các nhà thơ mới đã thể hiện niềm tự hào dân tộc qua những bài thơ ca ngợi lịch sử hào hùng, truyền thống văn hiến của dân tộc. Ví dụ:
“Nam quốc sơn hà Nam đế cư
Tiệt nhiên định phận tại thiên thư
Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm
Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư”
(Nam quốc sơn hà – Lý Thường Kiệt)
“Núi sông bờ cõi đã chia
Mà lòng anh vẫn nồng nàn chung
Đất Bắc Nam sum họp một nhà
Việt Nam là một nhà”
(Tiếng gọi thanh niên – Tố Hữu)
- Thể hiện qua những bài thơ lên án thực dân Pháp, khẳng định ý chí đấu tranh giải phóng dân tộc. Trong bối cảnh đất nước bị thực dân Pháp xâm lược, các nhà thơ mới đã thể hiện ý chí đấu tranh giải phóng dân tộc qua những bài thơ lên án thực dân Pháp, khẳng định ý chí quyết tâm của dân tộc. Ví dụ:
“Đất nước ta ôi
Đất nước đau thương nặng nề
Mặt trời của chúng ta
Bị che khuất trong mây mù”
(Đất nước – Nguyễn Đình Thi)
“Con tàu không còn neo đậu
Cánh buồm phất phới bay
Vượt trùng dương xa xôi
Về đất nước yêu thương”
(Về đất nước – Chế Lan Viên)
Gián tiếp
- Thể hiện qua những bài thơ thể hiện tâm trạng buồn bã, thất vọng, chán chường trước thời cuộc. Trong bối cảnh đất nước bị xâm lược, chế độ phong kiến mục nát, nhiều nhà thơ mới đã cảm thấy buồn bã, thất vọng, chán chường trước thời cuộc. Tâm trạng này cũng là một biểu hiện của lòng yêu nước. Ví dụ:
“Sầu trăm ngả sầu lên ngàn
Trời đất bao la sầu lên ngàn
Ta đi giữa mộng và đời
Sầu trăm ngả sầu lên ngàn”
(Tình già – Huy Cận)
“Lưu biệt
Trời đất bao la
Tôi là chiếc lá nhỏ
Bước đi trong gió”
(Lưu biệt – Lưu Trọng Lư)
- Thể hiện qua những bài thơ thể hiện khát vọng đổi thay, khát vọng tìm đến chân trời mới. Nhiều nhà thơ mới đã thể hiện khát vọng đổi thay, khát vọng tìm đến chân trời mới. Khát vọng này cũng là một biểu hiện của lòng yêu nước, bởi nó thể hiện mong muốn được giải phóng dân tộc, được sống trong một đất nước độc lập, tự do. Ví dụ:
“Tôi muốn tắt nắng đi
Cho màu đừng nhạt mất
Tôi muốn buộc gió lại
Cho hương đừng bay đi”
(Sóng – Xuân Quỳnh)
“Tôi muốn đi tìm một ngày mai
Không còn tiếng súng, không còn tiếng bom
Đất nước thanh bình, nhân dân hạnh phúc”
(Trên đường đi – Nguyễn Khoa Điềm)
Lòng yêu nước của các nhà thơ mới đã góp phần làm phong phú thêm nội dung của thơ ca Việt Nam. Lòng yêu nước ấy đã thể hiện tinh thần yêu nước nồng nàn của dân tộc Việt Nam trong thời kỳ đầu thế kỷ XX.
Câu 3 (trang 104 sgk Ngữ văn lớp 11 Tập 2):
Qua bài tiểu luận Một thời đại trong thi ca của Hoài Thanh, tôi hiểu thêm về tâm hồn khác nhà thơ lãng mạn và thế hệ thanh niên đương thời như sau:
Thứ nhất, các nhà thơ lãng mạn và thế hệ thanh niên đương thời đều là những người có tâm hồn nhạy cảm, tinh tế, luôn khao khát được thể hiện những cảm xúc, suy tư của mình trước cuộc đời. Họ là những người có học thức, có tư tưởng tiến bộ, luôn khao khát được tìm đến những chân trời mới.
Thứ hai, các nhà thơ lãng mạn và thế hệ thanh niên đương thời đều có tâm hồn lãng mạn, bay bổng. Họ yêu thiên nhiên, yêu cuộc sống, yêu những điều đẹp đẽ, lãng mạn. Tâm hồn lãng mạn của họ đã được thể hiện qua những hình ảnh thơ bay bổng, lãng mạn, như:
“Sóng cuộn trào reo vỗ
Gió rì rào trong lá
Trăng lồng cổ thụ bóng
Khói lam chiều bảng lảng”
(Sóng – Xuân Quỳnh)
“Đây mùa thu tới
Trên cành lưa thưa
Gió hắt hiu
Lao xao cành lá”
(Thu – Lưu Trọng Lư)
Thứ ba, các nhà thơ lãng mạn và thế hệ thanh niên đương thời đều có tâm hồn buồn bã, thất vọng, chán chường trước thời cuộc. Họ cảm thấy buồn bã, thất vọng trước thực trạng đất nước bị thực dân Pháp xâm lược, chế độ phong kiến mục nát. Tâm trạng này đã được thể hiện qua những bài thơ buồn bã, thất vọng, chán chường, như:
“Tình già
Sầu trăm ngả sầu lên ngàn
Trời đất bao la sầu lên ngàn
Ta đi giữa mộng và đời
Sầu trăm ngả sầu lên ngàn”
(Tình già – Huy Cận)
“Lưu biệt
Trời đất bao la
Tôi là chiếc lá nhỏ
Bước đi trong gió”
(Lưu biệt – Lưu Trọng Lư)
Thứ tư, các nhà thơ lãng mạn và thế hệ thanh niên đương thời đều có tâm hồn khao khát được đổi thay, được tìm đến chân trời mới. Họ khao khát được tìm đến một thế giới tươi đẹp hơn, nơi con người được sống tự do, hạnh phúc. Tâm trạng này đã được thể hiện qua những bài thơ thể hiện khát vọng đổi thay, khát vọng tìm đến chân trời mới, như:
“Tôi muốn tắt nắng đi
Cho màu đừng nhạt mất
Tôi muốn buộc gió lại
Cho hương đừng bay đi”
(Sóng – Xuân Quỳnh)
“Trên đường đi
Tôi muốn đi tìm một ngày mai
Không còn tiếng súng, không còn tiếng bom
Đất nước thanh bình, nhân dân hạnh phúc”
(Trên đường đi – Nguyễn Khoa Điềm)
Tóm lại, tâm hồn của các nhà thơ lãng mạn và thế hệ thanh niên đương thời là một tâm hồn đa dạng, phong phú, vừa có những nét đẹp, vừa có những nét buồn, thất vọng. Tâm hồn ấy đã được thể hiện qua những bài thơ giàu chất trữ tình, lãng mạn, đã góp phần làm phong phú thêm cho thi ca Việt Nam.
Với những hướng dẫn Soạn bài Một thời đại trong thi ca chi tiết như trên. Hy vọng sẽ giúp các bạn nắm được những ý chính của tác phẩm này. Chúc các bạn có những bài soạn thật tốt, để thuận tiện trong quá trình tiếp thu bài giảng.