Soạn bài Kiểm tra phần Tiếng Việt

     Hướng dẫn soạn bài Kiểm tra phần Tiếng Việt – Ngữ văn 9 chi tiết, đầy đủ nhất. Thông qua việc thực hành trả lời các câu hỏi trong phần hướng dẫn và bài tập, chúng ta có thể củng cố kiến thức cơ bản về tác phẩm này.

Một số đề luyện tập
Câu 1: (Trang 204, SGK Ngữ Văn 9 Tập 1)
Trong những câu thơ trên, tác giả Nguyễn Khuyến đã sử dụng một số từ láy có tác dụng gợi tả cảnh vật thiên nhiên một cách chân thực và sinh động.

  • Từ láy “nao nao” được dùng để miêu tả dòng nước chảy nhẹ nhàng, uyển chuyển.
  • Từ láy “nho nhỏ” được dùng để miêu tả cây cầu nhỏ bé, xinh xắn.
  • Từ láy “sè sè” được dùng để miêu tả những nấm đất nhỏ bé, mềm mại.
  • Từ láy “rầu rầu” được dùng để miêu tả những ngọn cỏ héo úa, ủ rũ.

Sự kết hợp hài hòa giữa các từ láy này đã tạo nên một bức tranh thiên nhiên vừa thơ mộng, trữ tình vừa buồn bã, trầm lắng.

Cụ thể:

  • Từ láy “nao nao” gợi lên cảm giác nhẹ nhàng, uyển chuyển, mềm mại của dòng nước. Dòng nước chảy không nhanh, không chậm, chỉ nhẹ nhàng uốn lượn theo dòng chảy.
  • Từ láy “nho nhỏ” gợi lên vẻ nhỏ bé, xinh xắn, duyên dáng của cây cầu. Cây cầu không cao, không lớn, chỉ nhỏ bé, xinh xắn, nằm nép mình bên ghềnh đá.
  • Từ láy “sè sè” gợi lên vẻ mềm mại, uyển chuyển của những nấm đất. Những nấm đất nhỏ bé, mềm mại, mọc bên đường.
  • Từ láy “rầu rầu” gợi lên vẻ héo úa, ủ rũ của những ngọn cỏ. Những ngọn cỏ héo úa, ủ rũ, vàng úa một nửa, xanh một nửa.

Tóm lại, việc sử dụng từ láy trong những câu thơ trên đã góp phần tạo nên thành công của bài thơ. Những từ láy đã giúp cho bức tranh thiên nhiên được miêu tả trở nên sinh động, chân thực và giàu cảm xúc hơn.

Câu 2: (Trang 204, SGK Ngữ Văn 9 Tập 1)
Lời dẫn trực tiếp trong đoạn trích Mã Giám Sinh mua Kiều

  • Lời dẫn trực tiếp của Mã Giám Sinh:
    • “Ta là Mã Giám Sinh quê ở huyện Lâm Thanh, tỉnh Hà Đông, nghe tiếng chị đẹp đã lâu, nay mới có dịp được gặp, quả nhiên là tuyệt thế giai nhân.”
    • “Ta thấy chị có vẻ mặt buồn rầu, chắc là vì gia cảnh phải bán mình. Ta thương chị, nên sẽ cố gắng chuộc chị về làm vợ.”
    • “Chị có chịu làm vợ ta không?”
  • Lời dẫn trực tiếp của bà mối:
    • “Chị Kiều là một người con gái xinh đẹp, nết na, lại có tài văn chương, đàn hát. Chị đã bị gia đình ép bán đi, nhưng vẫn giữ được phẩm hạnh trong sạch. Nay có một người con trai nhà giàu, hào hoa phong nhã muốn cưới chị về làm vợ.”
    • “Chị Kiều, nếu chị chịu làm vợ ông ta, chị sẽ được sống sung sướng, giàu sang.”

Nhận xét về cách xưng hô, nói năng của Mã Giám Sinh và bà mối

  • Mã Giám Sinh:
    • Xưng hô: tự xưng là “ta”, gọi Kiều là “chị”.
    • Nói năng: khoa trương, tự phụ, coi thường người khác.
  • Bà mối:
    • Xưng hô: xưng là “bà”, gọi Kiều là “chị”.
    • Nói năng: khéo léo, đon đả, nịnh hót.

Cách xưng hô, nói năng của Mã Giám Sinh và bà mối đã thể hiện rõ tính cách của hai nhân vật. Mã Giám Sinh là một kẻ háo sắc, giàu có nhưng thô lỗ, coi thường người khác. Bà mối là một người khéo léo, đon đả nhưng lại không có lương tâm, sẵn sàng bán rẻ phẩm hạnh của Kiều để kiếm tiền.

Câu 3: (Trang 205, SGK Ngữ Văn 9 Tập 1)
a. Trong số những từ ngữ hoặc câu được in đậm, ta có:

  • Lời dẫn trực tiếp:
    • “Chúng kể cho tôi nghe cuộc sống buồn tẻ của chúng, và những chuyện đó làm tôi buồn lắm”.
    • “Chúng kể cho tôi nghe về những con chim tôi bẩy được đang sống ra sao và nhiều chuyện trẻ con khác”.
    • “Thường thì chúng chỉ đề nghị tôi kể truyện cổ tích”.
    • “Tôi kể lại những truyện bà tôi đã kể, và nếu quên chỗ nào, tôi bảo chúng đợi, rồi chạy về nhà hỏi lại bà tôi”.
    • “Thật vậy, bà tôi thường rất hài lòng”.
    • “Tôi cũng kể cho chúng nghe nhiều về bà tôi”.
    • “Một hôm thằng lớn thở dài nói:
  • Có lẽ tất cả các bà đều rất tốt, bà tớ ngày trước cũng rất tốt…””.
  • Lời dẫn gián tiếp:
    • “Tôi nhớ lại thì chưa bao giờ chúng nói một lời nào về bố và về dì ghẻ”.
  • Không phải lời dẫn:
    • “Tôi cũng kể cho chúng nghe nhiều về bà tôi” (lặp lại lời dẫn trực tiếp).
    • “Nó thường nói một cách buồn bã: ngày trước, trước kia, đã có thời…” (lời nói trực tiếp không có dấu ngoặc kép).
  1. Vận dụng những phương châm hội thoại đã học, ta có thể giải thích vì sao nhân vật “thằng lớn” phải dùng từ có lẽ trong lời nhận xét của mình như sau:
  • Theo phương châm quan hệ, người nói cần nói những điều liên quan đến chủ đề đang được đề cập. Trong câu nói của mình, nhân vật “thằng lớn” đang nhận xét về bà của mình, một người mà anh ta đã không gặp lại trong một thời gian dài. Do đó, để đảm bảo tính liên quan, anh ta cần sử dụng từ có lẽ để thể hiện sự không chắc chắn về nhận xét của mình.
  • Theo phương châm cách thức, người nói cần nói cho rõ ràng, dễ hiểu. Trong câu nói của mình, nhân vật “thằng lớn” đang đưa ra một nhận xét khá chung chung, đó là tất cả các bà đều rất tốt. Để làm cho nhận xét của mình rõ ràng hơn, anh ta cần sử dụng từ có lẽ để thể hiện sự không chắc chắn của mình.
  • Theo phương châm lịch sự, người nói cần nói phù hợp với hoàn cảnh giao tiếp. Trong câu nói của mình, nhân vật “thằng lớn” đang nói về bà của mình. Do đó, để thể hiện sự lịch sự, anh ta cần sử dụng từ có lẽ để thể hiện sự tôn trọng đối với bà của mình.

Tóm lại, việc sử dụng từ có lẽ trong lời nhận xét của nhân vật “thằng lớn” là phù hợp với các phương châm hội thoại đã học.

Câu 4: (Trang 205, SGK Ngữ Văn 9 Tập 1)
Phân tích nét nghệ thuật độc đáo trong những câu (đoạn) sau:

  1. Một dãy núi mà hai màu mây

Nơi nắng nơi mưa, khí hậu cũng khác

Như anh với em, như Nam với Bắc

Như đông với tây một dải rừng liền.

  • Phép nhân hóa:
    • Hình ảnh “dãy núi” được nhân hóa bằng cách được gán cho những đặc điểm, hành động của con người: “nơi nắng nơi mưa”, “khí hậu cũng khác”.
  • Phép so sánh:
    • Hình ảnh “hai màu mây” được so sánh với “anh với em”, “Nam với Bắc”, “đông với tây”.

Nét nghệ thuật độc đáo:

  • Phép nhân hóa đã khiến cho dãy núi trở nên sinh động, có hồn hơn.
  • Phép so sánh đã làm nổi bật sự khác biệt giữa hai miền Trường Sơn: miền Đông nắng ấm, miền Tây mưa nhiều.
  1. Khi tâm hồn ta đã rèn luyện thành một sợi dây đàn

Sẵn sàng rung động trước mọi vẻ đẹp của vũ trụ,

Trước mọi cái cao quý của cuộc đời,

Ta là người một cách hoàn toàn hơn.

  • Phép so sánh:
    • Hình ảnh “tâm hồn” được so sánh với “sợi dây đàn”.

Nét nghệ thuật độc đáo:

  • Phép so sánh đã gợi lên vẻ đẹp trong sáng, tinh tế của tâm hồn.
  • Tâm hồn được ví như một sợi dây đàn, khi được rèn luyện sẽ trở nên nhạy cảm, tinh tế hơn, có thể rung động trước mọi vẻ đẹp của cuộc đời.
  1. Gậy tre, chông tre chống lại sắt thép của quân thù.

Tre xung phong vào xe tăng, đại bác.

Tre giữ làng, giữ nước, giữ mái nhà tranh, giữ đồng lúa chín.

Tre hi sinh để bảo vệ con người.

Tre, anh hùng lao động ! Tre, anh hùng chiến đấu !

  • Phép nhân hóa:
    • Hình ảnh “gậy tre, chông tre”, “tre” được nhân hóa bằng cách được gán cho những đặc điểm, hành động của con người: “chống lại”, “xung phong”, “giữ”, “hi sinh”.

Nét nghệ thuật độc đáo:

  • Phép nhân hóa đã khiến cho tre trở nên có hồn hơn, như những người lính dũng cảm, sẵn sàng chiến đấu hi sinh để bảo vệ Tổ quốc.
  • Tre được ca ngợi là “anh hùng lao động”, “anh hùng chiến đấu”.

Tóm lại, trong những câu (đoạn) trên, tác giả đã sử dụng linh hoạt và hiệu quả các biện pháp tu từ từ vựng, góp phần tạo nên những hình ảnh thơ, câu văn đẹp, giàu sức biểu cảm, thể hiện được những ý nghĩa sâu sắc.

Câu 5: (Trang 206, SGK Ngữ Văn 9 Tập 1)
Trong số các cách nói trên, các cách nói chưa ăn đã hết, đẹp tuyệt vời, một tấc đến trời, sợ vã mồ hôi, cười vỡ bụng, rụng rời chân tay, tức lộn ruột, tiếc đứt ruột, ngáy như sấm, nghĩ nát óc, đứt từng khúc ruột đều sử dụng phép nói quá.

  • Chưa ăn đã hết là cách nói phóng đại mức độ nhanh chóng của việc ăn uống. Thực tế, không có ai ăn mà hết ngay lập tức, nhưng cách nói này lại nhấn mạnh sự nhanh chóng, hào hứng của việc ăn uống.
  • Đẹp tuyệt vời là cách nói phóng đại mức độ đẹp đẽ của một sự vật, hiện tượng. Thực tế, không có gì là tuyệt vời tuyệt đối, nhưng cách nói này lại nhấn mạnh vẻ đẹp vượt trội của sự vật, hiện tượng đó.
  • Một tấc đến trời là cách nói phóng đại mức độ cao của một vật thể. Thực tế, không có vật thể nào cao đến mức một tấc chạm tới trời, nhưng cách nói này lại nhấn mạnh sự cao lớn, vượt trội của vật thể đó.
  • Sợ vã mồ hôi là cách nói phóng đại mức độ sợ hãi. Thực tế, không có ai sợ hãi đến mức vã mồ hôi, nhưng cách nói này lại nhấn mạnh sự sợ hãi tột độ của người đó.
  • Cười vỡ bụng là cách nói phóng đại mức độ cười. Thực tế, không có ai cười đến mức vỡ bụng, nhưng cách nói này lại nhấn mạnh sự vui vẻ, sảng khoái của người đó.
  • Rụng rời chân tay là cách nói phóng đại mức độ run rẩy. Thực tế, không có ai run rẩy đến mức rụng rời chân tay, nhưng cách nói này lại nhấn mạnh sự sợ hãi, kinh hoàng của người đó.
  • Tức lộn ruột là cách nói phóng đại mức độ tức giận. Thực tế, không có ai tức giận đến mức lộn ruột, nhưng cách nói này lại nhấn mạnh sự tức giận tột độ của người đó.
  • Tiếc đứt ruột là cách nói phóng đại mức độ tiếc nuối. Thực tế, không có ai tiếc nuối đến mức đứt ruột, nhưng cách nói này lại nhấn mạnh sự tiếc nuối, đau đớn của người đó.
  • Ngáy như sấm là cách nói phóng đại mức độ ngáy. Thực tế, không có ai ngáy đến mức như sấm, nhưng cách nói này lại nhấn mạnh sự ồn ào, to lớn của tiếng ngáy.
  • Nghĩ nát óc là cách nói phóng đại mức độ suy nghĩ. Thực tế, không có ai suy nghĩ đến mức nát óc, nhưng cách nói này lại nhấn mạnh sự suy nghĩ, trăn trở của người đó.
  • Đứt từng khúc ruột là cách nói phóng đại mức độ đau đớn. Thực tế, không có ai đau đớn đến mức đứt từng khúc ruột, nhưng cách nói này lại nhấn mạnh sự đau đớn, quằn quại của người đó.

Phép nói quá là một biện pháp tu từ được sử dụng để phóng đại mức độ, quy mô, tính chất của sự vật, hiện tượng. Phép nói quá thường được sử dụng trong văn chương để tăng cường tính gợi hình, gợi cảm, tạo ấn tượng mạnh mẽ cho người đọc, người nghe.

     Với những hướng dẫn soạn bài Kiểm tra phần Tiếng Việt – Ngữ văn 9 chi tiết như trên. Hy vọng sẽ giúp các bạn nắm được những ý chính của tác phẩm này. Chúc các bạn có những bài soạn thật tốt, để thuận tiện trong quá trình tiếp thu bài giảng.