Mở bài Người lái đò sông Đà
Để có được một bài văn Người lái đò sông Đà hay và ghi điểm cao thì việc viết mở bài tốt, giới thiệu đúng trọng tâm là một yếu tố vô cùng quan trọng. Một mở bài hay sẽ giúp độc giả có cái nhìn tổng quát về tác phẩm và tạo ấn tượng cho người chấm bài. Dưới đây là những mẫu mở bài Người lái đò sông Đà chọn lọc hay nhất cho các bạn tham khảo.
Mở bài Người lái đò Sông Đà ngắn gọn
Mẫu 1
Nói đến Nguyễn Tuân người ta nghĩ ngay đến một nhà văn của cái đẹp, bởi suốt cuộc đời của ông là hành trình đi tìm tòi, khám phá ra cái đẹp. Cái đẹp trong các tác phẩm văn học của ông phải là cái đẹp mà đạt đến độ hoàn thiện, hoàn mỹ. Trong sự nghiệp cầm bút sáng tác của Nguyễn Tuân, ông đã đạt được rất nhiều thành tựu kể cả trước và sau cách mạng. Và tùy bút “Người lái đò sông Đà” trích từ tập “Sông Đà” là một trong những sáng tác tiêu biểu nhất của nhà văn sau cách mạng tháng Tám.
Mẫu 2
Nguyễn Tuân là một trong những khuôn mặt tiêu biểu vượt trội của nền văn học Nước Ta tân tiến. Mỗi tác phẩm của ông là một bài ca về cái đẹp của con người, của đời sống với tư tưởng, tình cảm gắn bó quê nhà. Nguyễn Tuân được người đọc đặc biệt quan trọng chú ý quan tâm về phong thái thẩm mỹ và nghệ thuật rất riêng và rất độc lạ của ông. “ Người lái đò Sông Đà ”, đó là một bài tùy bút, cũng là một bài thơ bằng văn xuôi bộc lộ rõ nhất những nét tiêu biểu vượt trội về phong thái đó
Mẫu 3
Trên dòng sông Đà, nơi mà dòng nước hùng vĩ hòa mình vào khung cảnh núi rừng Tây Bắc ngoạn mục, hình tượng người lái đò là một biểu tượng huyền bí, là những nhạc nền đậm chất văn hóa, là những chiếc thuyền nhỏ nối liền những thế hệ và làm nổi bật vẻ đẹp cảm xúc của cuộc sống miền núi. Tác phẩm “Người lái đò sông Đà” của nhà văn Nguyễn Tuân như mở ra một cánh cửa kỳ diệu, dẫn dắt chúng ta vào thế giới tuyệt vời của những con sông, những đò lái và những câu chuyện tình người.
Mẫu 4
Nguyễn Tuân là một nhà văn tài hoa, uyên bác, có cá tính độc đáo. Ông luôn đi tìm cái đẹp ở những điều bình dị, giản đơn. Trong tùy bút “Người lái đò sông Đà”, Nguyễn Tuân đã khắc họa thành công hình tượng người lái đò sông Đà, một con người lao động bình dị nhưng mang trong mình những phẩm chất cao đẹp. Qua hình tượng này, nhà văn đã thể hiện tình yêu thiên nhiên, yêu cuộc sống và niềm tự hào của mình về con người lao động Tây Bắc.
Mẫu 5
Người lái đò sông Đà, một tác phẩm văn học độc đáo của Nguyễn Tuân, là một cuộc hành trình dọc theo dòng nước hùng vĩ, mở ra một thế giới đầy tình cảm và tâm hồn. Trong không khí tươi mới của miền núi Tây Bắc, chúng ta sẽ bắt gặp những người lái đò, những nhà thơ của dòng sông Đà, và cùng họ chìm đắm trong những trang văn ấn tượng, những dòng suy tư sâu sắc về cuộc sống và vẻ đẹp mộc mạc của miền đất này. Hãy cùng nhau bắt đầu cuộc phiêu lưu với những con thuyền trên dòng sông Đà, nơi mà lịch sử và văn hóa nối liền, hòa mình vào vẻ đẹp hoang sơ và huyền bí của núi rừng Tây Bắc Việt Nam.
Mở bài người lái đò sông Đà nâng cao
Mẫu 1
Nguyễn Tuân là một trong những nhà văn lãng mạn xuất sắc nhất của văn học Việt Nam. Ông là một cây bút tiên phong của nền văn học mới, với phong cách sáng tác độc đáo, uyên bác, tài hoa và lãng mạn. Nguyễn Tuân yêu thiên nhiên, yêu cuộc sống và con người. Ông luôn tìm kiếm những vẻ đẹp ẩn giấu trong cuộc sống đời thường, những vẻ đẹp phi thường, những nhân cách phi thường. Ông có một cái tôi tài hoa, uyên bác, luôn khát khao khám phá những điều mới lạ, độc đáo. Tác phẩm của Nguyễn Tuân luôn đa dạng về thể loại và sâu sắc. Tuy nhiên, đến với thể loại tùy bút, ta mới thấy rõ được tài năng thiên bẩm và đỉnh cao của ông ở dạng đề tài này. Đặc biệt, thông qua tập tùy bút Sông Đà, Nguyễn Tuân đã thực sự chinh phục người đọc với những áng văn miêu tả hình ảnh con sông Đà hùng vĩ vừa hung bạo vừa nên thơ trong tùy bút Người lái đò sông Đà. Trong tùy bút này, Nguyễn Tuân đã sử dụng ngôn ngữ tài hoa, uyên bác để khắc họa hình ảnh con sông Đà một cách chân thực và sinh động. Sông Đà hiện lên trong tác phẩm với vẻ đẹp vừa hung bạo, vừa trữ tình.
Mẫu 2
Dòng nước êm đềm của sông Đà bồi đắp không chỉ là những hồi ức của lịch sử, mà còn là nơi chứa đựng bao nhiêu câu chuyện đằng sau hình ảnh những người lái đò – những người hùng lặng lẽ, niềm tự hào của miền núi phong phú và hùng vĩ. Nguyễn Tuân, một họa sĩ tài năng của văn đàn Việt Nam, đã chọn lọc và lột tả đỉnh cao của nghệ thuật văn chương, đưa chúng ta bước chân vào thế giới mộng của “Người lái đò sông Đà”. Bằng những từ ngữ tinh tế, ông mở ra một cửa sổ huyền bí, nơi mà con người và sông nước hòa quyện tạo nên một tác phẩm văn chương bất hủ, là tấm gương sáng giữa dòng chảy thời gian.
Mẫu 3
Nếu nhắc đến những tên tuổi lớn trong văn học Việt Nam, liệu bạn có thể không ngờ đến sự ấn tượng và say mê mà Nguyễn Tuân mang lại? Có lẽ, như đa số những người yêu văn chương, đều đắm chìm trong dòng thơ tình đẹp như tranh của Xuân Diệu hoặc cảm nhận được cái gai góc, lạnh lùng trong từng dòng văn của Nam Cao về cuộc sống của người nông dân. Nhưng Nguyễn Tuân – một bậc thầy khác của làng văn chương, không ngần ngại, “tham lam” khi chọn cho mình một đề tài độc đáo – “Người lái đò Sông Đà”. Trên bức tranh văn học, ông tạo nên một điểm nhấn rực rỡ, như một ngôi sao sáng giữa bầu trời văn nghệ. Đọc bút ký của ông, bạn không chỉ cảm nhận được sức sáng tạo dồi dào mà còn trải qua những cung bậc cảm xúc đặc sắc, như tiếng ồ ngân vang đầy hồn của người đọc, chinh phục từng trái tim đam mê văn chương.
Mẫu 4
Nguyễn Tuân, một hình ảnh văn nghệ tinh tế, mà khi nhắc đến, người ta không thể không liên tưởng đến một nhà văn sống suốt đời với niềm đam mê tìm kiếm cái đẹp. Với ông, cái đẹp không chỉ đơn thuần là nét tương phản hài hòa trên bức tranh, mà nó còn là sự hoàn thiện, là tinh túy của mọi sự sống. Cuộc hành trình cầm bút của ông là một chặng đường dài với nhiều thành tựu, kể cả trước và sau cách mạng tháng Tám. “Người lái đò sông Đà,” trích từ tập tùy bút “Sông Đà,” đánh dấu bước phát triển mới của ông sau giai đoạn lịch sử quan trọng. Trong tác phẩm này, Nguyễn Tuân không chỉ kể một câu chuyện về người lái đò mà còn chạm vào tận cùng của tâm hồn con người, tìm kiếm cái đẹp đằng sau những góc khuất, và chia sẻ những tri thức sâu sắc về cuộc sống và con người.
Mẫu 5
“Người lái đò sông Đà” là thiên tùy bút rút trong tập “Sông Đà” (1960) của Nguyễn Tuân. Đây là thành quả nghệ thuật đẹp đẽ mà Nguyễn Tuân đã thu hoạch được trong chuyến đi thực tế đến Tây Bắc năm 1958. Trong chuyến đi này, tác giả đã có cơ hội sống với những khoảnh khắc thân thuộc nhất, hào hứng nhất của người nghệ sĩ trong ông. Ông cảm nhận được “thứ vàng mười đã qua thử lửa” của những người lao động bình dị trên miền sông nước hùng vĩ và thơ mộng. Thật đúng khi cho rằng “thiên tùy bút là bài ca về vẻ đẹp của người lao động trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội”, mà điển hình, dưới ngòi bút tài hoa của Nguyễn Tuân, là hình tượng người lái đò vừa là người anh hùng, vừa là người nghệ sĩ tài ba trong nghề của mình.
Mở bài sông Đà hung bạo
Mẫu 1
Trong bộ tùy bút đặc sắc mang tên “Sông Đà,” Nguyễn Tuân đã mê hoặc độc giả bằng những bức tranh tuyệt vời về thiên nhiên phong phú và đầy hấp dẫn ở vùng Tây Bắc của đất nước. Dưới bàn tay tài năng của ông, miền đất hùng vĩ này trở nên sống động, với những dãy núi xa ngàn dặm, hiểm trở mà đồng thời là thiên đàng thơ mộng. Nguyễn Tuân đã chạm khắc chi tiết từng đường nét, từng góc cạnh của vùng núi rừng, tô điểm cho bức tranh tự nhiên một sắc màu tươi đẹp. Những thung lũng lúa chín và những loài hoa hương thơm nở rộ dưới bức tranh bút ký của ông, tất cả đều tạo nên một khung cảnh tràn ngập hương thơm và sức sống.Tuy nhiên, điều tiêu biểu nhất, được Nguyễn Tuân dành nhiều tâm huyết mô tả, chính là hình ảnh hùng vĩ của con sông Đà. Sông hung bạo nhưng cũng nên thơ, ôm trọn bí mật của miền núi Tây Bắc. Dưới bút của nhà văn, sông Đà trở thành một nhân vật, một nguồn năng lượng sống mãnh liệt, vừa đẹp đẽ vừa mạnh mẽ, đan xen giữa những dòng chảy mênh mông của thời gian và lịch sử.
Mẫu 2
Nguyễn Tuân là một nhà văn tài hoa, uyên bác, yêu thích cái đẹp, cái phi thường. Ông có một phong cách sáng tác độc đáo, thể hiện ở sự tài hoa, uyên bác, tinh tế trong việc sử dụng ngôn ngữ, ở sự khám phá những vẻ đẹp ẩn giấu của cuộc sống, ở con mắt nhìn độc đáo, tinh tường của nhà văn. Con sông Đà là một trong những tác phẩm tiêu biểu nhất của Nguyễn Tuân sau cách mạng. Trong tác phẩm này, Nguyễn Tuân đã khắc họa thành công hình tượng con sông Đà với hai vẻ đẹp đối lập, tương phản: vẻ đẹp hung bạo, dữ dội và vẻ đẹp trữ tình, thơ mộng.
Mẫu 3
Tùy bút Sông Đà của Nguyễn Tuân là một trong những tác phẩm xuất sắc nhất của văn học Việt Nam hiện đại. Tác phẩm đã khắc họa thành công hình tượng con sông Đà vừa hung bạo, dữ dội vừa trữ tình, thơ mộng.Vẻ đẹp hung bạo, dữ dội của con sông Đà được thể hiện qua những đoạn miêu tả cụ thể và sinh động. Sông Đà có những đoạn chảy ngoằn ngoèo, uốn lượn như một con rồng khổng lồ. Sông Đà có những thác ghềnh dữ dội, nguy hiểm như trùng vi thạch trận với những cửa tử, cửa sinh rình rập. Sông Đà có những con sóng nước cuồn cuộn như thác đổ, như hùm beo gầm thét. Dưới ngòi bút tài hoa của Nguyễn Tuân, con sông Đà hiện lên như một sinh thể sống động, có tâm hồn, có tính cách. Sông Đà là một kẻ thù hung bạo, luôn tìm cách rình rập, vồ lấy những con thuyền nhỏ bé, con người bé nhỏ.
Mẫu 4
Kho tàng văn học Việt Nam rực rỡ với những tên tuổi văn nghệ vẻ vang, và trong đó, Nguyễn Tuân là một ngôi sao sáng giữa bầu trời văn chương. Với tài năng đặc biệt, ông đã chinh phục độc giả bằng những sáng tác xuất sắc, và trên tất cả, tùy bút “Người lái đò Sông Đà” đã ghi dấu ấn khó quên trong lòng người đọc. Con sông Đà hiện lên qua bức tranh văn chương của Nguyễn Tuân không chỉ là một đường chảy nước, mà còn là biểu tượng của sức sống mãnh liệt và hung bạo của văn hóa miền núi. Bằng cách kể chuyện và mô tả, ông đã gieo rắc những hạt gói cảm xúc, làm cho độc giả không chỉ cảm nhận được vẻ đẹp mênh mông của sông Đà mà còn đắm chìm trong những hồi ký và những câu chuyện người lái đò, tạo nên một tác phẩm độc đáo và đầy tình cảm.
Mẫu 5
Nguyễn Tuân là một nhà văn với lối viết truyện rất độc đáo và uyên bác, là một nhà văn rất tài hoa của nền văn học Việt Nam. Tác phẩm “Người lái đò sông Đà” là tác phẩm tiêu biểu cho sự nghiệp sáng tác của ông, được lấy cảm hứng từ chuyến đi thực tế của Nguyễn Tuân tới miền Tây Bắc của Tổ quốc, khi mà sông Đà chuẩn bị trở thành “dòng sông ánh sáng”. Hình tượng con sông Đà qua con mắt nhìn của nhà văn không chỉ mang một vẻ đẹp trữ tình mà còn mang tính cách đầy hung bạo, dữ dội vô cùng.
Mở bài người lái đò sông Đà học sinh giỏi
Mẫu 1
“Tôi tin rằng văn học thực chất là cuộc đời. Văn học không là gì cả nếu không vì cuộc đời mà có,” như lời của nhà văn Tố Hữu đã khẳng định, và điều này trở nên đặc biệt hữu ích khi ta nhìn vào tác phẩm của Nguyễn Tuân. Chất liệu thực tế của cuộc sống là nguồn cảm hứng không ngừng cho những tâm hồn nghệ sĩ, và trong thế giới tưởng tượng của họ, những dòng sông thường trở thành những sợi nhớ, những sợi thương không ngừng chảy qua bức tranh văn chương. Nguyễn Tuân, như một nghệ sĩ chân chính, đã tìm kiếm cái đẹp suốt đời, và dòng Đà giang đã làm say mê ông. Dòng sông không chỉ là một phần của cảnh đẹp tự nhiên, mà còn là nguồn cảm xúc sâu sắc trong trái tim người nghệ sĩ. Tình yêu của ông đối với sông Đà không chỉ gợi nên tình cảm mà còn trở thành nguồn động viên, là nguồn năng lượng thôi thúc ông sáng tác tùy bút “Người lái đò sông Đà.”
Mẫu 2
Những năm 1960 là giai đoạn miền Bắc chìm đắm trong khát vọng xây dựng xã hội chủ nghĩa, và “tâm hồn Tây Bắc” trở thành điểm đến tinh thần của nhiều nhà văn, nhà thơ trong hành trình biến đổi văn học. Trong dòng chảy sôi động đó, Nguyễn Tuân, với tư duy “chủ nghĩa xê dịch” của mình, đã dành chân đến miền đất đầy huyền bí này. Ông không chỉ là một cây bút nổi bật, mà còn là nghệ sĩ sáng tạo, tinh tế, và có cá tính độc đáo. Nguyễn Tuân, như một đại diện xuất sắc của nền văn hóa Việt Nam, đã để lại dấu ấn sâu sắc ở cả hai giai đoạn lịch sử – trước và sau Cách mạng tháng Tám. Với sự tài ba và uyên bác, ông đã góp phần làm phong phú văn chương Việt Nam, không ngừng khám phá và tái hiện thế giới xung quanh mình. Là một nghệ sĩ suốt đời tìm kiếm cái đẹp, Nguyễn Tuân thường nhìn nhận thế giới qua góc độ văn hóa thẩm mỹ, và trong tác phẩm “Người lái đò sông Đà,” ông đã tận dụng tài năng của mình để kể về con người và vẻ đẹp tài hoa của nghệ sĩ.
Mẫu 3
Tác phẩm văn học là một chiếc gương phản ánh hiện thực cuộc sống, nhưng nó lại phải trải qua lăng kính chủ quan của nhà văn. Tại đây, hiện thực không chỉ đơn thuần là bản sao của đời sống mà còn là một thế giới được tạo hình qua đôi mắt nghệ thuật của người sáng tạo. Nguyễn Tuân, một nghệ sĩ uyên bác với tài hoa xuất chúng, đã “bất tử hóa” vẻ đẹp của con sông Đà và cả vẻ đẹp trong tâm hồn người lao động trong giai đoạn xây dựng xã hội chủ nghĩa. Bằng cách tinh tế, ông đã biến chất tài năng của mình thành một sức mạnh không ngừng, làm cho hiện thực cuộc sống trở nên sống động, sôi động qua từng trang văn của mình. Đó không chỉ là việc ghi lại hiện thực mà còn là khám phá và tái tạo lại nó, làm cho tác phẩm trở nên độc đáo và đầy sức sống.
Mẫu 4
Mỗi nhà văn đều là một bông hoa tươi thắm và một giọng hát du dương nằm trong khu vườn thần tiên của văn học. Những nghệ sĩ, như những đóa hoa và tiếng ca, mang theo một sức sống đặc biệt, một mùi hương độc đáo, và một giai điệu riêng để tạo nên vị thế độc đáo trong tâm trí người đọc. Nguyễn Tuân, với quan điểm không muốn lặp lại người khác và chính mình, tạo nên một chất riêng biệt và đặc sắc. Hương sắc và tiếng ca của Nguyễn Tuân không giống ai khác, và điều này trở nên rõ ràng và đặc biệt hơn trong những trang văn của ông, đặc biệt là trong tác phẩm “Người lái đò sông Đà.” Những giá trị nghệ thuật và nội dung được thể hiện qua từng đoạn văn, từng câu chữ là như những nét đặc trưng độc đáo mà ta không thể không nhận ra.
Mẫu 5
Một tác phẩm nghệ thuật đích thực phải là một chiếc vỏ ốc nhỏ bé mong manh song lấp lánh sắc màu và từ đó ngân lên tiếng thì thầm của đại dương sâu thẳm, ngân lên những khúc ca về cuộc sống, tình yêu và khát vọng muôn đời. Như Pautopxki trong “Bụi quý” từng nói: “Sáng tác của chúng ta là để cho cái đẹp của trái đất, cho lời kêu gọi đấu tranh vì hạnh phúc vì niềm vui và tự do, cho cái cao rộng của tâm hồn và sức mạnh của trí tuệ chiến thắng bóng tối. Cho chúng rực rỡ như một mặt trời không bao giờ tắt”. Và “Người lái đò sông Đà” của Nguyễn Tuân chính là một tác phẩm như vậy. Tùy bút như một khúc ca ca ngợi vẻ đẹp của thiên nhiên Tây Bắc vừa hùng vĩ, bạo lực xong cũng vô cùng thơ mộng, trữ tình. Đặc biệt, trên cái phông, cái nền thiên nhiên ấy là vẻ đẹp của tâm hồn con người lao động trong công cuộc dựng xây đất nước.
Mở bài hình tượng người lái đò sông Đà
Mẫu 1
Trong cuộc hành trình khám phá vẻ đẹp và tâm hồn của xứ sở Việt Nam, có một hình tượng nổi bật, một hình ảnh tượng trưng cho sự kiên cường và mộc mạc của con người miền núi – đó chính là hình tượng người lái đò sông Đà. Đây không chỉ là một hình ảnh thuần túy về nghề nghiệp lái đò, mà là biểu tượng của sự gắn bó mạnh mẽ giữa con người và dòng sông hùng vĩ, là một cột mốc quan trọng trong văn chương, được tô điểm bởi bàn tay tài năng của nhà văn Nguyễn Tuân qua tác phẩm “Người lái đò sông Đà”.
Mẫu 2
Trong cuộc hành trình khám phá văn hóa và đất đai Việt Nam, hình tượng người lái đò trên dòng sông Đà nổi lên như một bức tranh hùng vĩ, làm cho tâm hồn độc giả mê đắm trong sự mộc mạc và kiên cường của con người miền núi. Tác phẩm “Người lái đò sông Đà” của nhà văn Nguyễn Tuân không chỉ là một tác phẩm văn học, mà còn là một bức chân dung tinh tế về người lái đò, nơi mà bức tranh cuộc sống, công việc, và tâm hồn họ được mô phỏng một cách chân thực và sâu sắc. Mở đầu cho chuyến phiêu lưu văn chương này, hãy cùng nhau đắm chìm vào thế giới đầy nghệ thuật và ý nghĩa của hình tượng người lái đò sông Đà, nơi mà mỗi đò lái là một chiếc thuyền đưa chúng ta khám phá những đỉnh cao của văn hóa và nhân tính.
Mẫu 3
Tây Bắc là một vùng đất hùng vĩ, hiểm trở nhưng cũng rất thơ mộng. Nơi đây đã trở thành nguồn cảm hứng bất tận cho các nhà văn, nhà thơ. Trong số đó, Nguyễn Tuân là một trong những người có những tác phẩm nổi tiếng nhất viết về Tây Bắc. Trong đó, tùy bút “Người lái đò sông Đà” là một tác phẩm tiêu biểu, đặc sắc. Tác phẩm đã khắc họa thành công hình tượng người lái đò sông Đà, một con người lao động bình dị nhưng mang trong mình những phẩm chất cao đẹp.
Mẫu 4
Người lái đò sông Đà là một trong những hình tượng nhân vật đặc sắc nhất trong văn học Việt Nam hiện đại. Hình tượng này đã được nhà văn Nguyễn Tuân khắc họa một cách chân thực, sinh động và đầy ấn tượng trong tùy bút “Người lái đò sông Đà”. Qua hình tượng này, nhà văn đã thể hiện tình yêu thiên nhiên, yêu cuộc sống và niềm tự hào của mình về con người lao động Tây Bắc.
Mẫu 5
Nguyễn Tuân là một nhà văn tài hoa, uyên bác, có cá tính độc đáo. Ông luôn đi tìm cái đẹp ở những điều bình dị, giản đơn. Trong tùy bút “Người lái đò sông Đà”, Nguyễn Tuân đã khắc họa thành công hình tượng người lái đò sông Đà, một con người lao động bình dị nhưng mang trong mình những phẩm chất cao đẹp.
Mở bài Sông Đà trữ tình
Mẫu 1
Nguyễn Tuân, như một đại diện xuất sắc của văn xuôi hiện đại, đã chế tác nên những bức tranh văn học đậm chất nghệ thuật, nơi mà mỗi từ ngữ, mỗi câu chuyện là một giai điệu mới của cuộc sống. Tùy bút “Người lái đò sông Đà” đồng hành cùng ông trên con đường sáng tạo, trở thành một tác phẩm không chỉ kể về một dòng sông mà còn là biểu tượng của sự hiên ngang và lưu luyến. Trong tác phẩm này, hình tượng con sông Đà được Nguyễn Tuân làm mới, biến đổi nó thành một sinh thể sống, có những nét tính cách đối lập: hung bạo và trữ tình, thơ mộng. Ngòi bút của ông không chỉ đơn thuần là dùng từ ngữ, mà còn là bức pano sắc màu về tâm hồn của con sông hùng vĩ. Điều đặc biệt là, qua những trang văn của Nguyễn Tuân, con sông Đà không chỉ là một yếu tố tự nhiên, mà còn là một nhân vật nghệ thuật, làm say mê và cuốn hút người đọc bằng vẻ đẹp thơ mộng, trữ tình của nó, được ông tái hiện một cách chân thực và đầy tình cảm.
Mẫu 2
Nguyễn Tuân là “suốt đời đi tìm cái đẹp”. Những tác phẩm của ông là những trang viết sống động về con người và thiên nhiên với cảm hứng ngợi ca. “Người lái đò sông Đà” là tác phẩm tiêu biểu cho khuynh hướng thẩm mĩ đó của nhà văn. Dưới ngòi bút của ông, sông Đà hiện lên không chỉ hung bạo như một “loài thủy quái nham hiểm và độc dữ” mà còn dịu dàng và say đắm như một mỹ nhân Tây Bắc.
Mẫu 3
Sông Đà, không chỉ là biểu tượng của sức mạnh và hung dữ, mà còn là một bức tranh tuyệt vời về sự thơ mộng. Từ mạn Thác Bờ trải dài xuôi theo dòng nước, Sông Đà bất ngờ hiện lên với vẻ dịu dàng, như một bức tranh yên bình của vùng đồng bằng. Nguyễn Tuân, như một họa sĩ tài năng, không chỉ chú trọng khám phá tính chất hung bạo của con sông mà còn tôn vinh tính trữ tình, hòa mình vào vẻ đẹp thơ mộng của dòng nước này.
Mẫu 4
Nguyễn Tuân, nhà văn theo chủ nghĩa xê dịch, đã để lại dấu ấn rõ nét về sự biến đổi trong phong cách văn chương qua những tác phẩm của mình, với điểm đặc biệt nổi bật là tác phẩm “Người lái đò sông Đà”. Trong cuộc hành trình sáng tạo, ông không ngừng khám phá và thay đổi, chấp nhận sự đa dạng của văn chương và biến hóa theo thời gian. “Người lái đò sông Đà” không chỉ là một tác phẩm đầy ấn tượng về vẻ đẹp hung bạo và dữ dội của con sông Đà, mà còn là một biểu tượng của sự đổi mới, của sự mạnh mẽ và tinh tế trong việc tái hiện vẻ đẹp thơ mộng, trữ tình của dòng sông này.
Mẫu 5
Kho tàng văn học Việt Nam đã ghi dấu và vang danh bao nhà văn, nhà thơ tài năng. Một trong số đó phải kể đến Nguyễn Tuân – một cây bút tài hoa với những sáng tác nổi bật. Ông được coi là một trong những nhà văn thành công nhất ở mảng tùy bút. Tiêu biểu trong những sáng tác của ông phải kể đến là tùy bút Người lái đò Sông Đà. Con sông Đà không chỉ đẹp bởi vẻ hung bạo, dữ dội mà còn vô cùng thơ mộng, trữ tình.
Mở bài trực tiếp Người lái đò Sông Đà
Mẫu 1
“Người lái đò sông Đà” là thiên tùy bút nổi tiếng của Nguyễn Tuân. Đây là thành quả nghệ thuật đẹp đẽ, là trái ngọt được thu về trong chuyến đi thực tế đến Tây Bắc năm 1958 của nhà văn. Trong chuyến đi này, Nguyễn Tuân đã có cơ hội sống với những khoảnh khắc thân thuộc, gần gũi và hào hứng nhất của người nghệ sĩ trong ông. Ông cảm nhận được cái “thứ vàng mười đã qua thử lửa” toát ra từ những người lao động bình dị trên miền sông nước hùng vĩ và thơ mộng. Thật đúng khi cho rằng “Người lái đò sông Đà” là bài ca về vẻ đẹp của người lao động trong công cuộc xây dựng và phát triển đất nước, mà điển hình, dưới ngòi bút tài hoa, uyên bác của Nguyễn Tuân, người lái đò hiện lên với những vẻ đẹp của người anh hùng, của người nghệ sĩ tài ba trong công việc của mình.
Mẫu 2
“Người lái đò Sông Đà” là hồi ức và thành quả của chuyến hành trình dấn thân vào vùng đất Tây Bắc xa xôi của nhà văn Nguyễn Tuân vào năm 1958. Tác phẩm này độc đáo xuất hiện trong tập Sông Đà được xuất bản vào năm 1960, với danh sách 15 bài tùy bút nổi bật của Nguyễn Tuân. Là một trong những tác phẩm xuất sắc nhất, tác giả đã đặt tên bài viết từ ban đầu là “Sông Đà”, và cho đến năm 1982, ông quyết định đổi tên thành “Người lái đò Sông Đà”.Tác phẩm này mở ra những nét mới mẻ, độc đáo mà chưa từng xuất hiện trong bất kỳ tác phẩm văn học nào khác, làm bừng sáng hình ảnh của sông Đà và những người lái đò như những nhạc công biểu diễn một bản giao hưởng tuyệt vời của cuộc sống miền núi Tây Bắc.
Mẫu 3
Tùy bút “Người lái đò sông Đà” là một tác phẩm xuất sắc của văn học Việt Nam hiện đại. Tác phẩm đã khắc họa thành công vẻ đẹp vừa hung bạo, vừa trữ tình của con sông Đà và hình tượng người lái đò sông Đà với những phẩm chất phi thường, tài hoa, nghệ sĩ. Vẻ đẹp hung bạo của sông Đà được thể hiện qua những đoạn miêu tả cụ thể và sinh động. Sông Đà có những đoạn chảy ngoằn ngoèo, uốn lượn như một con rồng khổng lồ. Sông Đà có những thác ghềnh dữ dội, nguy hiểm như trùng vi thạch trận với những cửa tử, cửa sinh rình rập. Sông Đà có những con sóng nước cuồn cuộn như thác đổ, như hùm beo gầm thét. Dưới ngòi bút tài hoa của Nguyễn Tuân, con sông Đà hiện lên như một sinh thể sống động, có tâm hồn, có tính cách. Sông Đà là một kẻ thù hung bạo, luôn tìm cách rình rập, vồ lấy những con thuyền nhỏ bé, con người bé nhỏ.
Mẫu 4
Người lái đò Sông Đà, trong vẻ huyền bí và lãng mạn của cái tên, là một biểu tượng sống động của văn hóa và thiên nhiên miền núi Tây Bắc Việt Nam. Nhà văn Nguyễn Tuân, một trong những cây bút tài hoa của văn học Việt, đã để lại dấu ấn sâu sắc về hình tượng này trong tác phẩm đặc sắc “Người lái đò Sông Đà”. Đến với đoạn văn này, chúng ta sẽ bắt đầu cuộc hành trình khám phá không gian bản địa hùng vĩ qua con mắt tinh tế và tâm hồn sâu lắng của Nguyễn Tuân, người đã biến dòng sông huyền thoại thành một thế giới đẹp đẽ, nơi mà trái tim của người lái đò trở thành điểm nối hòa mình với vẻ đẹp mộc mạc và tràn ngập cảm xúc của quê hương.
Mẫu 5
Nguyễn Tuân – người được mệnh danh là “Người đi tìm cái đẹp, cái thật trong đời” không chỉ là một trí thức yêu nước mà ông còn là một nhà văn tài hoa, uyên bác. Ông đã để lại nhiều tác phẩm lớn, nổi bật hơn cả là tùy bút Người lái đò sông Đà (1960). Tác phẩm là thành quả của nhà văn trong chuyến ông đi tới Tây Bắc tìm kiếm chất vàng mười đã qua thử lửa của thiên nhiên Tây Bắc. Tác phẩm tiêu biểu cho phong cách nghệ thuật của nhà văn sau Cách mạng tháng Tám.
Liên hệ mở rộng bài Người lái đò Sông Đà
Mẫu 1
Hình ảnh con sông Đà hung bạo và trữ tình không phải lần đầu tiên xuất hiện trong thơ ca. Nhưng qua cái nhìn tài hoa của nhà văn Nguyễn Tuân con sông Đà trong Tùy bút người lái đò sông Đà lại có vẻ đẹp độc đáo, có một không hai trong lịch sử văn học. Nhờ tài năng của mình Nguyễn Tuân đã mang đến một thi phẩm đặc sắc, đóng đinh trong sự nghiệp văn học của ông.
Con sông Đà được khai thác trên hai phương diện hung bạo và trữ tình. Đằng sau sự hùng vĩ của con sông Đà là những câu văn ấn tượng về sự hung bạo của nó trên ghềnh Hát Loong “Dài hàng cây số nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió, cuồn cuộn luồng gió gùn ghè suốt năm…” Việc lựa chọn những từ ngữ giàu hình ảnh, cô đọng, chính xác, thanh điệu, từ ngữ trùng điệp đã miêu tả chính xác sự hung dữ, hiểm ác của con sông Đà. Đó là một con sông độc đáo với vẻ đẹp có một không hai “mọi con sông đều chảy về hướng đông chỉ có sông Đà là chảy về hướng bắc”, hình ảnh gió, đá, nước, sóng của con sông Đà tạo cảm giác rùng rợn, hãi hùng, gây ấn tượng mạnh với thị giác của con người.
“Sóng gió gùn ghè suốt năm như lúc nào cũng đòi nợ xuýt” động từ gùn ghè kết hợp với hình ảnh so sánh táo bạo đã nhân hoá con sông Đà giống như một con người thực tế hung bạo, ngang ngược. Những câu văn tả cảnh sông Đà của Nguyễn Tuân làm người đọc chợt liên tưởng đến hình ảnh con sông Hương trong “Ai đã đặt tên cho dòng sông” của Hoàng Phủ Ngọc Tường “bản hùng ca rừng rú, rạo rực dưới bóng đại ngàn cây lao qua thác nước, những dòng xoáy huyền bí, gợi lên trong trí tưởng tượng của người đọc về hai dòng sông mạnh mẽ, dữ dội của đất nước”.
Bên cạnh vẻ đẹp của sự hung bạo, con sông Đà còn có một nét tính cách nữa trái ngược với sự hung bạo ấy chính là trữ tình. Tưởng rằng hai tính cách này trái ngược nhau nhưng thực sự lại bổ sung cho nhau, làm nên vẻ đẹp đa chiều của con sông Đà. Nét trữ tình của sông Đà được thể hiện qua những quãng sông êm ả, khi đá, sóng, ghềnh đã được chinh phục. “Thuyền tôi trôi trên sông Đà… con sông Đà tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc, chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban, hoa gạo tháng hai” Lúc này sông Đà mang vẻ đẹp dịu dàng, hiền hậu giống như một thiếu nữ vùng cao e ấp trước ánh mắt của kẻ si tình. Lại có lúc sông Đà được nhà văn cảm nhận giống như được gặp lại cố nhân. Vẻ đẹp mềm mại của con sông Đà có điểm tương đồng với con sông Hương của Hoàng Phủ Ngọc Tường “Người ta nhìn bao giờ cũng thấy sông như mềm mại tấm lụa, với những con thuyền ngược xuôi, nhỏ như con thoi”, “ở đây như tìm được đúng đường về, sông càng vui giữa biển khơi”. Rồi lại có nét trầm buồn như con sông trong bài “Tràng Giang” của Huy Cận:
Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp
Con thuyền xuôi mái nước song song
Thuyền về nước lại sầu trăm ngả
Củi một cành khô lạc mấy dòng
Chất trữ tình đã thấm sâu vào trong từng con chữ khiến hình ảnh của những con sông hiện lên đầy tâm sự, giống như một con người. Những câu văn hay câu thơ bay bổng thể hiện sự thăng hoa của tâm hồn con người, người viết như đưa chất thơ lãng mạn vào sông nước khiến con sông mang vẻ đẹp tuyệt mỹ lạ thường.
Một hình ảnh chiếm vị trí quan trọng trong tuỳ bút này không thể không nhắc đến người lái đò sông Đà. Đó là một người đàn ông đã lớn tuổi nhưng sự khỏe mạnh, vạm vỡ và rắn chắc của cơ bắp chẳng kém những thanh niên tuổi đôi mươi. Quá nửa đời người gắn bó với con sông Đà này người lái đò đã thuộc lòng những trận đá, những con thác, những ngón đòn hung bạo của con sông Đà. Mỗi lần vượt thác của ông là một lần chinh phục con sông tử thần. Phẩm chất tài hoa của ông đã được khắc họa rõ nét thông qua khung cảnh vượt thác sông Đà. Trước sự hung bạo và hiểm ác của con sông Đà, người lái đò vẫn giữ được sự bình tĩnh, tỉnh táo để chinh phục được ma trận, trước cái thạch trận ấy người lái đò vẫn chẳng hề nao núng. Ông giữ chặt tay chèo cho thuyền khỏi bị hất lên, giữa vòng vây trùng điệp của sóng ông lái đò vẫn bình tĩnh chỉ huy để con thuyền cập bến an toàn. Vẻ đẹp trong lao động của người lái đò sông Đà có nét gần gũi với vẻ đẹp của nhân vật Huấn Cao trong “Chữ người tử tù”. Nguyễn Tuân đã cho thấy khát khao chinh phục những nét đẹp tiềm tàng của con người, trân trọng giá trị của con người.
Với tuỳ bút người lái đò sông Đà người đọc thực sự ấn tượng với những trang văn đậm chất thơ, chất hội hoạ, phóng sự và của nhiều lĩnh vực khác nữa. Tác phẩm đã cho thấy tài năng, nhân cách cùng vẻ đẹp của tâm hồn Nguyễn Tuân, con người suốt đời đi tìm cái đẹp của con người.
Mẫu 2
“Hùng vĩ của Sông Đà không phải chỉ có thác đá . Mà nó còn là những cảnh đá bờ sông, dựng vách thành, mặt sông chỗ ấy chỉ đúng lúc ngọ mới có mặt trời. Có vách đá thành chẹt lòng Sông Đà như một cái yết hầu. Đứng bên này bờ nhẹ tay ném hòn đá qua bên kia vách. Có quãng con nai con hổ đã có lần vọt từ bờ này sang bờ kia. Ngồi trong khoang đò qua quãng ấy, đang mùa hè mà cũng thấy lạnh, cảm thấy mình như đứng ở hè một cái ngõ mà ngóng vọng lên một khung cửa sổ nào trên các tầng nhà thứ mấy nào vừa tắt phụt đèn điện.
Lại như quãng mặt ghềnh Hát Loóng, dài hàng cây số nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió, cuồn cuộn luồng gió gùn ghè suốt năm như lúc nào cũng đòi nợ xuýt bất cứ người lái đò Sông Đà nào tóm được quả đấy. Quãng này mà khinh suất tay lái thì cũng dễ lật ngửa bụng thuyền ra.
Lại như quãng Tà Mường Vát phía dưới Sơn La. Trên sông bỗng có những cái hút nước giống như cái giếng bê tông thả xuống sông để chuẩn bị làm móng cầu. Nước ở đây thở và kêu như cửa cống cái bị sặc. Trên mặt cái hút xoáy tít đáy, cũng đang quay lừ lừ những cánh quạ đàn. Không thuyền nào dám men gần những cái hút nước ấy, thuyền nào qua cũng trèo nhanh để lướt quãng sông, y như là ô tô sang số nhấn ga cho nhanh để vút qua một quãng đường mượn cạp ra ngoài bờ vực. Chèo nhanh và tay lái cho vững mà phóng qua cái giếng sâu, những cái giếng sâu nước ặc ặc lên như vừa rót dầu sôi vào. Nhiều bè gỗ rừng đi nghênh ngang vô ý là những cái giếng hút ấy nó lôi tuột xuống. Có những thuyền đã bị cái hút nó hút xuống, thuyền trồng ngay cây chuối ngược rồi vụt biến đi, bị dìm và đi ngầm dưới lòng sông đến mươi phút sau mới thấy tan xác ở khuỷnh sông dưới. Tôi sợ hãi mà nghĩ đến một anh bạn quay phim táo tợn nao muốn truyền cảm giác lạ cho khán giả, đã dũng cảm dám ngồi vào một cái thuyền thúng tròn vành rồi cho cả thuyền cả mình cả máy quay xuống đáy cái hút sông.. – từ đáy cái hút nhìn ngược lên vách thành hút mặt sông chênh nhau tới một cột nước cao đến vài sải. Thế rồi thu ảnh. Cái thuyền xoay tít, những thước phim màu cũng quay tít, cái máy lia ngược contre-plongée lên một cái mặt giếng mà thành giếng xây toàn bằng nước sông xanh ve một áng thủy tinh khối đúc dày, khối pha lê xanh như sắp vỡ tan ụp vào cả máy cả người quay phim cả người đang xem. Cái phim ảnh thu được trong lòng giếng xoáy tít đáy, truyền lại cho người xem phim ký sự thấy mình đang lấy gân ngồi giữ chặt ghế như ghì lấy mép một chiếc lá rừng bị vứt vào một cái cốc pha lê nước khổng lồ vừa rút lên cái gậy đánh phèn.”
(Trích “Người lái đò sông Đà” – Nguyễn Tuân, SGK Ngữ văn 12, NXB Giáo dục)
Nhắc đến Nguyễn Tuân, ta nhớ ngay đến một nghệ sĩ tài hoa uyên bác, người luôn luôn kiếm tìm, khám phá và thể hiện cái đẹp với một niềm say mê kỳ lạ. Niềm say mê cái đẹp ấy đã khiến nhà văn tạo ra cho mình một cái nhìn nghệ thuật riêng: Khám phá và thể hiện thiên nhiên, con người từ góc độ văn hóa, thẩm mỹ. Đặc sắc phong cách đó của Nguyễn Tuân thể hiện rõ nét qua tác phẩm “Người lái đò sông Đà” (in trong tập tùy bút “Sông Đà” – kết quả của chuyến đi thực tế lên Tây Bắc của Nguyễn Tuân năm 1958). Với kiệt tác này, Nguyễn Tuân đã đặc biệt thành công trong việc biến vùng sông nước ấy thành nghệ thuật, thành một niềm gợi cảm mênh mông. Sông Đà qua ngòi bút tài hoa độc đáo của Nguyễn Tuân, không còn là thực thể vô tri vô giác mà như một cá thể có tính cách riêng, vừa hung bạo, dữ dằn, vừa trữ tình, đằm thắm.
Đoạn văn: “Hùng vĩ của sông Đà không chỉ có thác.. cốc pha lê nước khổng lồ vừa rút lên cái gậy đánh phèn” vừa dựng lên bức tranh hùng vĩ, tráng lệ về Đà giang khúc thượng nguồn vừa thể hiện những nét độc đáo trong quan niệm về cái đẹp của Nguyễn Tuân.
Là người nghệ sĩ thích chơi “ngông”, thích tranh tinh xảo với tạo hóa, Nguyễn Tuân không chấp nhận những cách diễn đạt bình thường, dễ dãi, không hạ mình nói lại những gì người ta đã nói, ông đã ghi dấu ấn riêng, màu sắc riêng của mình trên từng trang viết bằng một phong cách nghệ thuật độc đáo, tài hoa. Ông được coi là một định nghĩa sống về “người nghệ sĩ” từ “cái râu cái tóc ông chẳng giống ai” đến ý thức trách nhiệm với nghề, ý thức sáng tạo. Và sự độc đáo đã tạo ra cái độc đáo. Sông Đà dù không phải lần đầu tiên đi vào thơ văn, nhưng khó nhà văn nào có thể “vượt mặt” được ông trong việc xây dựng hình tượng này.
Nguyễn Tuân đến với sông Đà như đến với “cố nhân”, đến với người bạn tương phùng tương đắc. Vẻ đẹp vừa dữ dội, mãnh liệt vừa thơ mộng tuyệt vời của sông Đà có sức hút với ông hết sức mạnh mẽ. Ngòi bút của ông vì thế có cơ hội thăng hoa. Ông đã được thỏa chí tung hoành trong trí tưởng tượng phong phú của chính mình và để lại trên trên trang viết những dòng văn đậm chất Nguyễn Tuân: “Hùng vĩ của sông Đà không chỉ có thác đá. Mà nó còn là những cảnh đá bờ sông, dựng vách thành, mặt sông chỗ ấy chỉ lúc đúng ngọ mới có mặt trời”
Qua ngòi bút Nguyễn Tuân, cảnh vách đá sông Đà thật hùng vĩ, tráng lệ . Nguyễn Tuân dùng từ “vách thành” chứ không phải là “thành vách” như thói quen dùng từ thường lệ. Thế mới “lạ”, mới chẳng giống ai. Phải chăng, “vách thành” mới diễn tả trọn vẹn sự sừng sững, uy nghiêm, chứa đầy hiểm nguy của vách đá đôi bờ sông Đà?
Vách đá ấy dựng đứng, cao vòi vọi, khiến ánh nắng mặt trời chỉ lúc đúng ngọ mới có thể chạm tới mặt sông. Cái tài của Nguyễn Tuân là ông không dùng một chữ “cao”, mà ta vẫn cảm nhận được độ cao hun hút của vách đá.
Tác giả còn phát huy cao độ trí tưởng tượng để gợi tả độ hẹp của dòng sông: “Có vách đá chẹt lòng sông Đà như một cái yết hầu. Đứng bên này bờ nhẹ tay ném hòn đá qua bên kia vách. Có quãng con nai, con hổ đã có lần vọt từ bờ này qua bờ kia. Ngồi trong khoang đò qua quãng ấy, đang mùa hè cũng thấy lạnh, cảm thấy mình như đứng ở hè một cái ngõ mà ngóng vọng lên một cái khung cửa sổ nào trên các tầng nhà thứ mấy nào vừa tắt phụt đèn điện”.
Nghệ thuật so sánh được Nguyễn Tuân sử dụng vừa chính xác, tinh tế, vừa bất ngờ và lạ lùng: “vách đá thành chẹt lòng sông Đà như một cái yết hầu”. Động từ “chẹt” và hình ảnh so sánh với cái “yết hầu” đã đem đến ấn tượng mãnh liệt cho người đọc về độ hẹp của lòng sông khi trôi giữa hai vách đá sừng sững. Đặc biệt, Nguyễn Tuân còn tạo ra ấn tượng về sự tương phản của xúc giác với chi tiết “ngồi trong khoang đò qua quãng ấy, đang mùa hè mà cũng thấy lạnh” như cực tả sự âm u đến giá lạnh của quãng sông chật hẹp ít ánh sáng mặt trời này. Trong câu văn tiếp theo nhà văn còn tạo ra ấn tượng của thị giác khi lấy hè phố để miêu tả mặt sông, lấy
nhà cao gợi tả vách đá, và tiếp tục truyền đến người đọc những hình dung về cái tăm tối lạnh lẽo đột ngột khi con thuyền đi từ ngoài vào khúc sông có đá hun hút dựng vách thành qua hình ảnh so sánh về “một khung cửa sổ nào trên cái tầng thứ mấy nào vừa tắt phụt đèn điện”.
Nếu những câu văn trên gây ấn tượng với người đọc bởi vẻ đẹp hùng vĩ của sông Đà, thì những câu văn tiếp theo, lại gây ấn tượng về sự hung bạo của sông Đà quãng mặt ghềnh Hát Loóng: “dài hàng cây số nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió, cuồn cuộn luồng gió gùn ghè suốt năm như lúc nào cũng đòi nợ xuýt bất cứ người lái đò Sông Đà nào tóm được quả đấy”. Câu văn có nhịp ngắn, nhanh, dồn dập kết hợp với các thanh sắc, những từ ngữ trùng điệp nối tiếp thế chỗ nhau trong các cụm từ ngữ đã tái hiện một cách sinh động sự dữ dội đến hung bạo của con sông qua hình ảnh nước, sóng, gió, và đá sông Đà. Mặt nước sông Đà quãng này cuồn cuộn những con sóng dữ vút lên, chồm lên nhau tạo cảm giác ghê rợn, hãi hùng. Từ láy “gùn ghè” kết hợp hình ảnh so sánh mang đậm sắc thái nhân hóa về việc sóng gió trên mặt ghềnh Hát Loóng “lúc nào cũng đòi nợ xuýt” bất cứ người lái đò sông Đà nào qua đây đã khiến người đọc hình dung rõ nét sự hung hãn, lì lợm, cuồng bạo của dòng sông Tây Bắc. Đem lại những ấn tượng mạnh mẽ hơn nữa là hình ảnh những cái hút nước ở quãng Tà Mường Vát: “.. Những cái hút nước giống như cái giếng bê tông thả xuống sông để chuẩn bị làm móng cầu. Nước ở đây thở và kêu như cửa cống cái bị sặc. Trên mặt cái hút xoáy tít đáy, cũng đang quay lừ lừ những cánh quạ đàn”. Hàng loạt những so sánh sống động, đặc sắc khiến hút nước thiện ra khi mang hình hài của một “cái giếng bê tông” xoáy tít, khi trong âm thanh của một “cửa cống cái bị sặc”, khi là hình ảnh và âm thanh khi mặt nước bị “rót dầu sôi”.
Ngoài ra, các từ láy tượng hình “lừ lừ”, tượng thanh tăng nghĩa “ặc ặc” cùng những chi tiết so sánh kết hợp nhân hóa “thở và kêu như cửa cống cái bị sặc”.. tất cả góp phần làm hiện ra cả hình ảnh và âm thanh của hút nước như một quái vật đang trong cơn giận dữ cuồng loạn sẵn sàng gieo chết chóc cho con người. Nên không phải ngẫu nhiên mà Nguyễn Tuân lại điểm vào chi tiết những cánh quạ đàn quay lừ lừ.. Chẳng phải đó là hình ảnh gợi lên sự chết chóc hay sao?
Sự nguy hiểm của hút nước sông Đà khiến “không thuyền nào dám men gần những cái hút nước ấy, thuyền nào qua cũng trèo nhanh để lướt quãng sông, y như là ô tô sang số nhấn ga cho nhanh để vút qua một quãng đường mượn cạp ra người bờ vực”. Giữa chốn núi rừng hoang sơ, Nguyễn Tuân đã thổi vào không khí của phố thị khi so sánh chiếc thuyền với ô tô, đoạn sông có những cái hút nước với quãng đường mượn cạp ra ngoài bờ vực. Từ đó khẳng định những cái hút nước này chính là mối đe dọa mà bất cứ ai cũng phải sợ, phải thật điêu luyện, thật bình tĩnh nhưng nhanh chóng mới có thể “thoát chết” khi đi ngang qua đây.
Nhà văn còn phát huy trí tưởng tượng phong phú khi hình dung ra những bè gỗ to lớn nghênh ngang bị “lôi tuột xuống” đáy hút nước, hay “những chiếc thuyền đã bị cái hút nó hút xuống, thuyền trồng ngay cây chuối ngược rồi vụt biến đi, bị dìm và đi ngầm dưới lòng sông đến mươi phút sau mới thấy tan xác ở khuỷu sông dưới”.
Bằng những quan sát tỉ mỉ, tinh tường, kết hợp cách dùng hàng loạt động từ “lôi”, “hút”, “trồng”, “dìm”, “đi ngầm”, “tan xác”.. Nguyễn Tuân đã diễn tả hình ảnh chiếc thuyền bị hút nước nuốt chửng một cách đáng sợ. Con sông mang trên mình những cái hút nước khổng lồ ấy khiến ta hình dung nó chẳng khác nào một loài thủy quái hung bạo, dữ dằn. Nó sẵn sàng nuốt tất cả mọi thứ vào lòng sâu của cái chết. Con thủy quái ấy cứ như chỉ chờ có thuyền nào qua là lôi tuột, nuốt chửng con thuyền tội nghiệp cho hả cơn giận dữ.
Sự miêu tả như thế kể cũng đã kỳ thú lắm, nhưng vẫn còn chưa khiến ta phải thán phục, phải ghê gớm cho tài nghệ của Nguyễn Tuân như trong những câu cuối đoạn này: “Tôi sợ hãi mà nghĩ đến một anh bạn quay phim táo tợn [..] chiếc lá rừng bị bứt vào một cái cốc pha lê nước khổng lồ vừa rút lên cái gậy đánh phèn”.
Như vậy, không dừng lại trong những liên tưởng, tưởng tượng về cái bè gỗ hay một con thuyền bất hạnh nào đó phải làm mồi cho hút nước, Nguyễn Tuân còn tạo ra một giả tưởng ly kỳ đưa người đọc vào trò chơi cảm giác, kéo họ xuống tận đáy hút nước xoáy tít, sâu hoắm cùng một anh bạn quay phim táo tợn. Hút nước vì thế đã được miêu tả bằng thủ pháp điện ảnh, khi nhà văn hình dung đến cảnh quay của người nghệ sĩ quay phim ấy khi anh dũng cảm ngồi trên chiếc thuyền thả mình vào hút nước rồi hất ngược ống quay lên ghi lại những thước phim sống động mà rùng rợn. Thước phim chân thật từng chi tiết, từ hình khối của “một thành giếng xây toàn bằng nước” cho đến màu sắc của dòng sông “nước xanh ve”, và thậm chí cho đến cả cảm giác sợ hãi của con người khi phải đứng trong lòng một “khối pha lê xanh như sắp vỡ tan”, bất cứ lúc nào cũng như sắp đổ ụp vào người.
Một sức bút bình thường làm sao có nổi một cái so sánh vừa chính xác, tinh tế, lại vừa bất ngờ và lạ lùng đến thế. Dõi theo từng câu chữ Nguyễn Tuân, chắc hẳn nhiều người trong số chúng ta sẽ nhận ra mình nghèo nàn biết bao nhiêu cả về từ ngữ và ý tưởng. Phải chăng khi viết những câu văn này, Nguyễn Tuân đã phải luôn lục lọi đến tận cùng kho cảm giác và liên tưởng phong phú, bộn bề, nhằm tìm ra những chữ nghĩa chính xác nhất, có khả năng động người đọc nhiều nhất.
Nguyên Tuân từng viết: “Giàu ngôn ngữ thì văn sẽ hay.. Cũng cùng một vốn ngôn ngữ ấy nhưng sử dụng có sáng tạo thì văn sẽ có bề thế và kích thước. Có vốn mà không biết sử dụng chỉ như nhà giàu giữ của. Dùng chữ như đánh cờ tướng, chữ nào để chỗ nào phải đúng vị trí của nó. Văn phải linh hoạt. Văn không linh hoạt gọi là văn cứng đơ thấp khớp”. Với một quan niệm nghệ thuật như thế, Nguyễn Tuân đã mang đến một áng văn bề thế và độc đáo, sắc sảo và uyên bác. Một áng văn chỉn chu, trau chuốt đến từng câu chữ. Đoạn văn trên chính là minh chứng cho quan niệm “khắt khe” của Nguyễn Tuân về nghệ thuật, cũng là thành quả ngọt ngào của cả quá trình “rèn chữ” khổ luyện công phu.
Bằng các thủ pháp đối lập, nhân hóa, so sánh, những liên tưởng, tưởng tượng táo bạo, bất ngờ, cùng hệ thống ngôn từ giàu có, phong phú, và sự uyên bác trong kiến thức lịch sử, thơ ca, hội họa, quân sự, thể thao.. đoạn trích trên đã giúp người đọc hình dung ra vẻ đẹp hùng vĩ, dữ dội của sông Đà vùng thượng nguồn . Đằng sau hình tượng dòng sông mà ông dụng công tạo tạc ấy là tình yêu tha thiết mà Nguyễn Tuân dành cho thiên nhiên và con người Tây Bắc. Bởi tác phẩm nghệ thuật chân chính bao giờ cũng là là kết quả của tình yêu lớn lao.
Đồng thời, đoạn trích còn thể hiện những nét độc đáo trong quan niệm về cái đẹp của Nguyễn Tuân: Dù trước hay sau cách mạng, Nguyễn Tuân luôn nhìn sự vật ở phương diện văn hóa, thẩm mỹ. Với cách nhìn này, sông Đà trong mắt ông hiện lên như một kỳ quan của tạo hóa. Nguyễn Tuân còn quan niệm cái đẹp phải gây ấn tượng mạnh. Vì vậy, trong đoạn trên, ông đã miêu tả dòng sông Tây Bắc vùng thượng nguồn không còn là thực thể vô tri vô giác mà hung bạo, dữ dằn như mang tâm địa của một loài thủy quái. Đã trữ tình thì phải trữ tình đến độ đằm thắm, say mê, đã dữ dằn thì phải dữ dằn đến độ truyền cả cảm giác ghê sợ, hãi hùng đến cho người đọc. Bởi Nguyễn Tuân không chấp nhận sự dễ dãi trong cách xây dựng hình tượng, nên cái đẹp trong trang văn của ông cũng không nhàn nhạt, lờ mờ mà phải là tuyệt mĩ. Để tạo nên ấn tượng đó, Nguyễn Tuân đã tung ra đạo binh ngôn từ hùng hậu cùng tất cả sự tài hoa, uyên
bác trong ngòi bút của mình.
Mẫu 3
Nguyễn Tuân là một người nghệ sĩ tài hoa, ông có sở trường về tùy bút. Sông Đà là tập tùy bút hay nhất của Nguyễn Tuân viết về cảnh và người Tây Bắc, là kết quả của chuyến đi thực tế Tây Bắc năm 1958 của nhà văn. Ở Tây Bắc, ông sống với bộ đội, thanh niên xung phong, công nhân làm đường và đồng bào các dân tộc ít người. Thực tiễn xây dựng cuộc sống mới ở vùng cao đã mang lại cho Nguyễn Tuân nguồn cảm hứng sáng tạo dồi dào. Phong cảnh Tây Bắc dưới ngòi bút Nguyễn Tuân vừa hùng vĩ uy nghiêm, vừa tuyệt vời, thơ mộng. Trong bài Người lái đò sông Đà rút từ tập tùy bút Sông Đà, nhà thơ không chỉ ca ngợi vẻ đẹp của thiên nhiên mà còn hết lời ngợi ca vẻ đẹp của con người Tây Bắc, nhất là những người lái đò trên con sông dữ dội và thơ mộng ấy.
Vẻ đẹp của nhân vật người lái đò trong bài tùy bút này được bộc lộ ở nhiều góc cạnh khác nhau .Trong tùy bút, hình ảnh sông Đà hiện lên thật hung ác :“ Lúc này nước sông Đà reo như đun sôi lên một trăm độ muốn hất tung đi một cái thuyền đang phải đóng vai một cái nắp ấm của một ấm nước sôi khổng lồ. Ngấn mạn thuyền thấp hơn ngấn nước tư vi bên ngoài, cạp mui thuyền cắm ngập dưới ngấn nước đang sôi trắng lên. Mặt sông cũng có ổ gà như mặt đường kạn, đi vào ổ gà sông là thuyền bị giật xuống bị dồn lên. Đã gọi là thác, tức là chỗ khúc sông phức tạp có nhiều luồng nước. Có luồng nước đi lầm vào thì chết ngày, có luồng nước đi vào đúng luồng rồi nhưng mà không trúng tim luồng thì cũng vẫn hoàn toàn có thể là thập tử nhất sinh như thường … ” .Nhưng hình ảnh sông Đà hiện lên không kém phần thơ mộng, trữ tình :“ Tôi có bay tạt qua sông Đà mấy lần, và thấy đó cũng là thêm cho mình một góc nhìn nhìn một cách nhìn về con sông Tây Bắc hung bạo và trữ tình … ” ; “ Con sông Đà tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc, chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn mù khói núi Mèo đốt nương xuân. Tôi đã nhìn say sưa làn mây mùa xuân bay trên sông Đà, tôi đã xuyên qua đám mây mùa thu mà nhìn xuống dòng nước sông Đà. Mùa xuân dòng xanh ngọc bích, chứ nước sông Đà không xanh màu xanh canh hến của sông Gâm, sông Lô. Mùa thu nước sông Đà lừ lừ chín đỏ như da mặt người bầm đi vì rượu bữa, lừ lừ cái màu đỏ tức giận ở một người bất mãn tức bực gì mỗi độ thu về. Chưa hề khi nào tôi thấy dòng sông Đà là đen như thực dân Pháp đã đè ngửa con sông ta ra đổ mực Tây vào mà gọi bằng một cái tên Tây láo lếu, rồi cứ thế mà phết vào map … ” .Hình ảnh con sông Đà vừa “ hung bạo và trữ tình ” là cái nền để người lái đò Open. Ông lái đò là người anh hùng sông nước : trong cuộc chiến đấu gay go với con sông dữ, ông là người chỉ huy tài ba, trí dũng, can trường. Vượt qua hết những vực xoáy, luồng chết, cửa tử, … để đưa con đò đến nơi sóng yên nước lặng. Về tư thế : “ ông đò hai tay giữ mái chèo khỏi bị hất lên khỏi sóng trận địa phóng thẳng vào mình ”, về phong thái : “ tỉnh táo, tự tin, cố nén vết thương do sóng nước gây ra ”, về hành vi : “ hai chân vẫn kẹp chặt lấy cuống lái ”, “ đánh đòn tỉa ”, “ đánh đòn âm vào chỗ hiểm ”. Sau khi “ phá xong cái trùng vi thạch trận, vòng thứ nhất ”, ông không một phút “ nghỉ tay nghỉ mắt ”, phá luôn vòng vây thứ hai và đổi luôn “ giải pháp “. Khi nắm chặt lấy được cái bờm sóng đúng luồng rồi, ông “ ghì cương lái, bám chắc lấy luồng nước đúng mà phóng nhanh vào cửa sinh, mà lái miết một đường chéo về phía cửa đá ấy ”. Thế là những luồng tử đã “ bỏ hết lại sau thuyền. Chỉ còn vẳng reo tiếng hò của sóng thác luồng sinh ”. Sau đó, ông bước vào trận chiến với “ một trùng vây thứ ba ”. Ông liền “ phóng thẳng thuyền, chọc thủng cửa giữa ” có bọn đá hậu vệ của con thác. Rồi “ vút, vút, cửa ngoài, cửa trong, lại cửa trong cùng, thuyền như một mũi tên tre xuyên nhanh qua hơi nước, vừa xuyên vừa tự động hóa lái được, lượn được ”. Thế là hết thác. Sóng nước lại thanh thản .Hơn nữa, ông lái đò còn là nghệ sĩ tài hoa. Trong nghề chèo đò vượt thác, ông lái đò đã nắm chắc binh pháp của thần sông, thần đá. Ông đã thuộc quy luật phục kích của lũ đá nơi ải nước hiểm trở. Ở vòng đầu lũ đá ấy đã mở ra năm cửa trận, có bốn cửa tử, một cửa sinh, cửa sinh nằm lập lờ phía tả ngọn sông nhưng ông đã thuộc lòng những cửa này. Ở vòng thứ hai, cửa tử tăng lên để đúng lừa con thuyền của ông vào, và cửa sinh lại sắp xếp lệch qua phía bờ hữu ngạn nhưng ông vẫn cứ hiểu được điều nguy khốn ấy. Ông mày mò ra cách chinh phục chúng : cưỡi lên thác sông Đà, phải cưỡi đến cùng như thể cưỡi hổ. Khi bốn năm bọn thủy quân cửa ải nước bên bờ trái liên xô ra định níu thuyền lôi vào tập đoàn lớn cửa tử, nhờ nhớ mặt bọn này nên đứa thì ông tránh mà rảo bơi chèo lên, đứa thì ông đè sấn lên mà chặt đôi ra để mở đường tiến, ở trùng vây sau cuối, mặc dầu ít cửa hơn nhưng ông nhận ra rằng ở bên phải bên trái đều là luồng chết cả, lại ở ngay giữa bọn đá hậu vệ của con thác. Cho nên, ông dùng đòn “ phóng thẳng ”. Thế là ông thắng lợi trọn trong cuộc đi qua cửa ải nước đủ tướng dữ, quân tợn vừa qua. Đúng như nhà văn Nguyễn Tuân nhận xét, ông lái đò là một “ tay lái ra hoa ” .Còn cô lái đò là một người phụ nữ Nước Ta yêu nước tha thiết, đảm đang, tháo vát, tâm hồn dạt dào xúc cảm và tràn ngập chất thơ : “ … Một buổi chiều Quỳnh Nhai khác, tôi lại tìm đến một cô lái đò đã từng chở đò dọc đưa gạo kháng chiến từ Quỳnh Nhai về thác Tà Hè đổ lên kho quân lương. Cô lái đò châu Quỳnh Nhai giảng cho tôi hiểu biết thêm về ý nghĩa kiến trúc của cái thuyền then vuốt đuôi én trên sông Đà : “ Các anh bảo thuyền giống con cá, bảo cái thuyền như một con cá nó quẫy mạnh đuôi trên mặt sông thì cũng được thôi. Chúng em chỉ biết cái đuôi thuyền nó vẫy lên cao như thế để có cái chỗ mà treo cái bu gà. Gà sống này, con nào đẹp lông và gáy hay, thì phải mua đến mười đồng bạc mới. Con gà sống là cái đồng hồ đeo tay của người lái đò sông Đà đấy. Đi đường xa, qua bờ này bến khác, có tiếng gà gáy đem theo, nó đỡ nhớ nương ruộng bản mường mình. Hai bên bờ sông Đà, ai ai cũng biết hát cả đấy. Đang phát nương, nhìn xuống dòng sông Đà mà thấy thuyền những eng đi qua, là người phụ nữ Thái chúng em đều hát gửi xuống một hai câu và có khi hát cả một bài. Hồi Pháp chiếm đóng, tiếng hát của phụ nữ đều lánh xa bờ xa bến. Nhiều tiếng hát chạy xa lên tận đỉnh núi. Nay độc lập, hết địch rồi tiếng hát mới lại xuống dần tới mặt bên … ” .Nhìn chung, thẩm mỹ và nghệ thuật miêu tả nhân vật của Nguyễn Tuân rất tài hoa. Nhà văn lược bỏ hầu hết những chi tiết cụ thể về đời tư của ông lái đò, cô lái đò để đi sâu khắc họa ngoại hình, hành vi của nhân vật .Chúng ta thử so sánh nhân vật người lái đò với nhân vật Huấn Cao ( Chữ người tử tù ). Nhân vật Huấn Cao trong truyện Chữ người tử tù của Nguyễn Tuân là một con người tài hoa, khí phách hiên ngang quật cường, “ thiên lương ” trong sáng. Huấn Cao viết chữ rất đẹp : “ Chữ ông Huấn Cao đẹp lắm, vuông lắm ( … ). Có được chữ ông Huấn mà treo là có một bảo vật trên đời ”. Trong thị hiếu nghệ thuật và thẩm mỹ của cố nhân, từ Nước Trung Hoa đến Nước Ta, viết chữ đẹp là một thủ pháp nghệ thuật và thẩm mỹ và chơi chữ đẹp là một thú chơi cao khiết, thanh nhã. Bởi vậy, qua những do dự, giám sát, mưu mẹo, biệt đãi, nhẫn nhục, đau khổ, hoảng loạn, hy vọng, vô vọng, hoảng sợ, lúng túng, tôn kính của viên quản ngục thì cái tài hoa quý và hiếm của nhân vật Huấn Cao càng được tôn lên đỉnh điểm chói lọi .Về khí phách, Huấn Cao không chịu vào luồn ra cúi, không chịu sống cảnh “ cá chậu chim lồng ”, ông đi làm giặc triều đình. Đến khi bị bắt đưa vào ngục tử tù, ông không tỏ ra mảy may sợ hãi hay hụt hẫng. Cổ mang gông, chân vướng xiềng, bước vào ngục tử tù chờ ngày ra pháp trường, ông vẫn hiên ngang, đường hoàng như bước tiến trên đường cái. Chính cái khí phách khác thường của ông đã làm cho nguc quan – một người đầy uy quyền so với ông – phải tỏ ra “ khép nép ” khi vào gặp ông tại nhà lao. “ Thiên lương ” của ông vô cùng trong sáng : cái tài của Huấn Cao chính là nơi phát lộ cái tâm của ông. Tiền bạc, uy quyền không hề lung lạc được ông : “ Ta nhất sinh không vì vàng ngọc hay quyền thế mà ép mình viết câu đối khi nào ”. Ông đúng là một nhân cách lí tưởng : “ Bần tiện bất năng di, phong phú bất năng dâm, uy vũ bất năng khuất ” .Vì vậy, khi chưa hiểu được những phẩm chất tốt đẹp của ngục quan ( biết trân trọng, thật lòng yêu cái đẹp dù phải sống trong thực trạng xấu xa ) thì Huấn Cao có thái độ cứng rắn với ông. Đến lúc cảm được “ cái tấm lòng biệt nhỡn liên tài ” của ngục quan, Huấn Cao mềm lòng thốt lên : “ Nào ta biết đâu một người như thầy quản đây và lại có những sở trường thích nghi cao quý như vậy. Thiếu chút nữa, ta phụ mất một tấm lòng trong thiên hạ ”. Và Huấn Cao sẵn sàng chuẩn bị cho nguc quan những dòng chữ sau cuối của một đấng tài hoa, một bậc anh hùng nghĩa sĩ trong một cảnh tượng “ lâu nay chưa từng có ở chốn lao tù ” : “ Đêm hôm ấy, lúc trại giam tỉnh Sơn chỉ còn vẳng có tiếng mõ trên vọng canh, một cảnh tượng lâu nay chưa từng có, đã bày ra trong một buồng tối chật hẹp, khí ẩm, tường đầy mạng nhện rác rưởi, đất bừa bãi phân chuột, phân gián. Trong một không khí tỏa như đám cháy nhà, ánh sáng đỏ rực của một bó đuốc tẩm dầu rọi lên ba cái đầu người đang chú ý trên một tấm lụa bạch còn nguyên vẹn lần hồ. Khói bốc tỏa cay mắt, làm họ dụi mắt lia lịa. Một người tù, cổ đeo gông, chân vướng xiềng đang đậm tô nét chữ trên một tấm lụa trắng tinh căng trên mảnh ván. Người tù viết xong một chữ, viên quản ngục lại vội khúm núm cất những đồng xu tiền kẽm lưu lại ô chữ đặt trên phiến lụa óng. Và cái thầy thơ lại gầy gò, thì run run bưng chậu mực. Thay bút con, đề xong lạc khoản, ông Huấn Cao thở dài, buồn bã đỡ viên quản ngục đứng thẳng người dậy và đĩnh đạc bảo :“ Ở đây lẫn lộn. Ta khuyên thầy Quản nên thay chốn ở đi. Chỗ này không phải là nơi để treo bức lụa trắng với những nét vuông tươi tắn nó nói lên cái tham vọng tung hoành của một đời con người. Thoi mực, thầy mua ở đâu mà tốt và thơm quá vậy. Thầy có thấy mùi thơm ở chậu mực bốc lên không ? … Tôi bảo thực đấy, thầy Quản nên tìm về nhà quê mà ở đà, thầy hãy thoát khỏi cái nghề này đi đã, rồi hãy nghĩ đến chuyện chơi chữ. Ở đây, khó giữ thiên lương cho lành vững và rồi cũng đến nhem nhuốc mất cả đời lương thiện đi ” .Lửa đóm cháy rừng rực, lửa rụng xuống nền đất ẩm phòng giam, tàn lửa tắt nghe xèo xèo. Ba người nhìn bức châm, rồi lại nhìn nhau. Ngục quan cảm động, vái người tù một vái, chắp tay nói một câu mà dòng nước mắt rỉ vào kẽ miệng làm cho nghẹn ngào : “ Kẻ mê muội này xin bái lĩnh ” .Đoạn văn tả cảnh Huấn Cao cho chữ trên đây thể hiện toàn vẹn nhất vẻ đẹp sáng ngời của nhân cách Huấn Cao. Trong không khí sang trọng và quý phái, thiêng liêng, trong cảm hứng phát minh sáng tạo mãnh liệt, mê say, ông Huấn Cao đã quên hẳn gông xiềng, nhà ngục chật hẹp, tối tăm, khí ẩm, quên cả cái chết đang chờ đón mình. Tâm hồn ông trọn vẹn hướng tới sự bất tử của cái đẹp, cái “ thiên lương ” trong sáng. Lời khuyên nhủ của ông so với quản ngục đã biểu lộ ý niệm biện chứng của ông giữa cái tâm và cái tài, giữa cái đẹp và cái thiện. Trong nhân sinh quan cao vời của ông, người nghệ sĩ mê hồn cái đẹp trước hết phải là người phải biết đặt “ thiên lương ” lên vị trí tột cùng. Lời di huấn thiêng liêng ấy của Huấn Cao về thẩm mỹ và nghệ thuật, về đạo lý làm người đã được quan ngục bái lĩnh bằng toàn bộ tấm lòng chân thực của mình và người đời trân trọng lắng nghe. Có thể nói, cảnh ông Huấn Cao cho chữ là sự thắng lợi kiêu hùng của ánh sáng so với bóng tối, của “ thiên lương ” so với tội ác, của cái chân – thiện – mỹ đối với cái xấu xa, thô bỉ. Hơn nữa, đó còn là hình tượng của việc cài hoa lên ngôi trong cảnh lao tù. Người tử tù đang tiến dần đến cõi chết, nhưng còn tài hoa của họ đang nhiệt huyết, từ tốn bước vào cõi bất tử, vĩnh hằng .Nhìn chung, vẻ đẹp của hình tượng Huấn Cao là vẻ đẹp lãng mạn, có sức chinh phục, cảm hóa mãnh liệt so với những con người có tấm lòng “ biệt nhỡn liên tài ” .Từ việc tìm hiểu và khám phá vài nét về vẻ đẹp hình tượng của nhân vật Huấn Cao tất cả chúng ta dễ thấy được chỗ thống nhất và độc lạ trong cách tiếp cận con người của Nguyễn Tuân trước và sau Cách mạng tháng Tám. Về nét chung ( tính thống nhất ) : Nguyễn Tuân vẫn tiếp cận con người ở phương diện tài hoa, nghệ sĩ. Ông vẫn là ngòi bút tài hoa, uyên bác, lịch sự, vận dụng tri thức tổng hợp của nhiều ngành văn hóa truyền thống, thẩm mỹ và nghệ thuật khác nhau trong miêu tả và biểu lộ : điện ảnh, hội họa, điêu khắc .. Ông vẫn sử dụng vốn ngôn từ rất là tinh lọc, phong phú và đa dạng, độc lạ, giàu sang. Khả năng tổ chức triển khai câu văn xuôi đầy giá trị tạo hình, có nhạc điệu trầm bổng, biết co duỗi uyển chuyển. Mặt khác, những phép ví von, so sánh, ẩn dụ, hoán dụ, nhân hóa, tượng trưng, đối ngữ, liệt kê … được nhà văn phối hợp vô cùng điêu luyện, về nét riêng ( tính độc lạ ) : Trước Cách mạng tháng Tám, con người Nguyễn Tuân hướng tới và ca tụng là những “ con người đặc tuyển, những tính cách khác thường ”. Các nhân vật ông Nghè, ông Cử, ông Huấn Cao ( Vang bóng một thời ), ông Thông phu, cô đào Tám ( Lư đồng mắt cua ) là những dẫn chứng sinh động. Sau Cách mạng tháng Tám, nhân vật tài hoa nghệ sĩ của Nguyễn Tuân hoàn toàn có thể tìm thấy ngay trong cuộc chiến đấu, lao động hàng ngày của nhân dân. Đó là anh bộ đội Tây Bắc ngụy trang bằng hoa đào, đuổi giặc giữa rừng đào. Đó là người chiến sĩ cộng sản Tô Hiệu trồng đào trong xà lim hay cô nhân quán Quảng Bình ngồi gác máy bay dưới gốc hoàng mai. Đó là những cô gái lái đò sông Đà trên những chiếc thuyền đuôi én cao ráo … Đặc biệt là ông lái đò sông Đà vượt thác sông Đà “ tay lái ra hoa ”. Trước Cách mạng tháng Tám, Nguyễn Tuân là một người tài tử, thích chơi “ ngông ”, mắc cái bệnh ham mê thanh sắc, thích chiêm ngưỡng và thưởng thức, chắt chiu cái đẹp và nhấm nháp những cảm xúc mới lạ. Khi ấy, ở Nguyễn Tuân, phần nhiều cái gì cùng trở thành “ chủ nghĩa ” : chủ nghĩa hình thức, chủ nghĩa duy mĩ, chủ nghĩa xê dịch, chủ nghĩa hưởng lạc, chủ nghĩa cảm xúc, chủ nghĩa tài tử, chủ nghĩa ẩm thực ăn uống …, và bao trùm lên toàn bộ là chủ nghĩa độc lạ. Sau Cách mạng tháng Tám, nhà văn nhạy cảm với con người mới, đời sống mới từ góc nhìn thẩm mĩ của nó. Nhưng không còn là một Nguyễn Tuân “ thẩm mỹ và nghệ thuật vị nghệ thuật và thẩm mỹ ” nữa. Ông đã nhìn ra cái đẹp của con người dưới góc nhìn của những yếu tố xã hội ( Xòe ). Cụ thể là cái đẹp gắn với nhân dân lao động, với đời sống đang nảy nở sinh sôi ; đồng thời lên án, tố cáo chính sách cũ, khẳng định chắc chắn thực chất nhân văn hóa của chính sách mới .
Qua Người lái đò sông Đà và nhân vật người lái đò, ta thấy nổi lên một Nguyễn Tuân tài hoa độc đáo, uyên thâm, tâm huyết, có tấm lòng yêu thương, tự hào da diết về vẻ đẹp của thiên nhiên, con người miền Tây Bắc xa xôi của Tổ quốc. Ca ngợi sự gan góc, thông minh, dũng cảm, kiên cường, tài hoa nhân hậu của con người Việt Nam trong công cuộc lao động xây dựng cuộc sống mới ở vùng cao. Người lái đò sông Đà thật sự là một bài ca lãng mạn, trong sáng, hào sảng về lao động và về vẻ đẹp của con người trong lao động.
Trên đây là tổng hợp các mẫu mở bài Người lái đò sông Đà xuất sắc nhất mà chúng tôi đã chọn lọc được, hy vọng những mẫu văn này sẽ giúp cho các bạn có được những bài văn hay. Chúc các bạn có những bài văn thật tốt và đạt được điểm cao tuyệt đối trong các kì thi.